Google

20/08/2008

Phương pháp chữa viêm khớp mới

Bệnh nhân viêm khớp mãn tính trên thế giới đang vui mừng đón chào một tin tốt lành: Các bác sĩ phẫu thuật ĐH Bách khoa Tampere (Phần Lan) vừa nuôi trồng thành công khớp xương ngón chân và ngón tay mới. Thành tựu này sẽ góp phần giảm bớt hậu quả của căn bệnh, giúp bệnh nhân bớt đau đớn và phục hồi chức năng hoạt động cho cơ thể.

Viêm khớp mãn tính là căn bệnh khiến cho lớp đệm giữa các khớp bị sưng tấy. Do vậy, khớp xương bị bệnh có thể biến dạng và dần dần mất khả năng vận động bình thường. Bệnh nhân viêm khớp sẽ có cảm giác đau đớn, sưng tấy và cứng ở khớp xương. Các triệu chứng này có thể kéo dài trong một thời gian dài hoặc đột ngột xuất hiện rồi giảm ngay. Trong trường hợp nặng, bệnh nhân có thể bị thoái hóa khớp và dẫn đến tàn tật vĩnh viễn. Hiện nay, trên thế giới có hàng chục triệu người bị viêm khớp mãn tính, trong đó phụ nữ bị nhiều gấp đôi, thậm chí gấp 3 nam giới.

Các chuyên gia chỉ phẫu thuật cho trường hợp khớp đặc biệt bị tổn thương hoặc gây đau đớn. Khi đấy, bác sĩ sẽ ghép một miếng đệm bằng nhựa giữa các xương để giúp cho cơ thể vận động tốt hơn. Tuy nhiên, sau một thời gian, miếng đệm có thể bị giòn và trở nên dễ vỡ. Khi đấy, bác sĩ phải phẫu thuật lại để thay một miếng khác.

Tiến bộ hơn phương pháp thay đĩa đệm bằng nhựa, kỹ thuật nuôi trồng khớp có thể giải quyết triệt để căn bệnh này. Nhóm nghiên cứu do Giáo sư Pertti Törmälä phụ trách đã thiết kế một cái khuôn đặc biệt làm từ sợi chỉ tự tiêu với rất nhiều lỗ tí hon. Với đường kính 10mm và bề dày 3 cm, chiếc khuôn được đặt vào chỗ trống giữa các xương ngón chân và ngón tay. Nó được thiết kế sao cho mô phát triển qua các lỗ tí hon và lấp đầy khoảng trống giữa các đốt xương, tạo thành khớp mới. Trong vòng 18 tháng, khuôn sẽ tự tiêu huỷ trong cơ thể.

Cho đến nay, nhóm nghiên cứu đã điều trị cho hơn 100 bệnh nhân viêm khớp. Giáo sư Törmälä tâm sự: "Bệnh nhân có thể cử động ngón chân và ngón tay của họ gần như ngay lập tức. Khớp mới hoạt động tốt chẳng kém gì khớp bình thường cả. Trong vòng mấy năm qua, chúng tôi đã theo dõi từng bệnh nhân và thấy rằng, hầu hết mọi người đều khỏi bệnh".

Gần đây, nhóm nghiên cứu của Giáo sư Törmälä đã được Liên minh châu Âu (EU) tài trợ để tiếp tục nghiên cứu, nhằm hoàn thiện kỹ thuật nuôi trồng khớp. Hiện nay, kỹ thuật này đang được thử nghiệm tại các bệnh viện của Phần Lan, Thuỵ Điển, Đức, Italia và Thổ Nhĩ Kỳ. Và chắc chắn là trong tương lai, nó sẽ được áp dụng rộng rãi để chữa trị cho tất cả các bệnh nhân viêm khớp trên toàn thế giới. (Khánh Hà - Theo BBC) VietNamNet

18/08/2008

KẾT XƯƠNG BẰNG ÐINH ÐÀN HỒI METAIZEAU PHƯƠNG PHÁP MỚI TRONG ÐIỀU TRỊ GÃY XƯƠNG

Tác giả : MINH CHÂU

Ở các nước tiên tiến, phương pháp điều trị gãy xương bằng đinh đàn hồi Metaizeau đã được đưa vào chữa trị từ nhiều năm qua. Song ở nước ta thì đây là một phương pháp mới lạ. Từ trước đến nay, những nạn nhân bị gãy xương đều được điều trị theo phương pháp cổ điển là bảo tồn (nắn chỉnh, bó bột...), vừa lạc hậu, vừa không an toàn và có thể gây biến chứng cho bệnh nhân bất cứ lúc nào. Trước tình hình đó, Bác sĩ Nguyễn Thái Sơn - Phó GÐ Bệnh viện Ða khoa Saint Paul - đã mạnh dạn ứng dụng phương pháp điều trị gãy xương bằng đinh đàn hồi và bước đầu đem lại những thành công và hiệu quả thiết thực cho nhiều bệnh nhân.

Ưu điểm của phương pháp kết xương bằng đinh đàn hồi Metaizeau

Theo bác sĩ Nguyễn Thái Sơn, tại Pháp, người ta đã chế tạo ra loại đinh nhỏ, đàn hồi Metaizeau (hay còn gọi là đinh Nancy) có đường kính từ 2-4 mm, dài 30-40 cm. Ðầu đinh cong, nhẹ và dẹp. Loại đinh này được luồn vào trong ống tủy của bệnh nhân sau khi đã được nắn chỉnh xương. Mỗi xương thường được luồn 2 đinh theo nguyên lý 3 điểm tì đối lực nhau. Nhờ đó mà xương được kết thẳng trở lại mà không phải trải qua phẫu thuật, tránh được sự mổ xẻ, mất máu và nhiễm trùng. Thậm chí, nó cũng không ảnh hưởng đến sụn tiếp và không để lại sẹo lớn (vì vết rạch chỉ khoảng 1cm). Chính vì sự tiện lợi này mà đinh đàn hồi Metaizeau rất được các nước tiên tiến ưa chuộng và thường xuyên sử dụng tại các bệnh viện.

Sự ưu việt của phương pháp chữa trị bằng đinh đàn hồi Metaizeau còn được thể hiện rõ nét ở chỗ: Sau mổ, bệnh nhân không cần phải bó bột, các khớp được cử động, bệnh nhân được tập phục hồi chức năng sớm. Khi cần tháo bỏ đinh cũng rất đơn giản và nhẹ nhàng. Qua điều trị bằng phương pháp này cho một số bệnh nhân cho thấy, chỉ sau 2-3 tháng là xương liền trở lại và có thể hoạt động như người bình thường.

Có thể nói, việc chữa trị gãy xương bằng đinh đàn hồi Metaizeau là một phương pháp khoa học và đem lại hiệu quả rất cao, nhưng vì chúng ta chưa có đủ điều kiện về trang thiết bị nên nhiều năm qua, các bệnh viện vẫn chưa đưa vào sử dụng.

Có lẽ vì sự ưu việt của phương pháp mà trong thời gian qua, Bệnh viện Saint Paul đã đi tiên phong và mạnh dạn áp dụng cho gần 100 bệnh nhân gãy xương các loại. Trong đó, phần lớn là trẻ em ở độ tuổi từ 4-16. Ða số những bệnh nhân trước đó đều đã được kéo nắn, bó bột nhưng không đạt kết quả tốt. Chị Ngô Thanh Vân, một trong những bệnh nhân vừa được điều trị bằng phương pháp này phấn khởi nói: "Ðược điều trị bằng đinh đàn hồi Metaizeau, tôi thực sự tin tưởng và an tâm. Trước đó, tôi đã chữa bằng bó bột nhưng không hiệu quả và ngứa ngáy rất khó chịu. Thời gian lại kéo dài cả tháng mà không có tiến triển gì. Khi được các bác sĩ áp dụng phương pháp chữa trị bằng đinh đàn hồi Metaizeau, tôi thấy hết sức dễ chịu và nhanh chóng bình phục. Chỉ sau 2 ngày đã được xuất viện". Không riêng gì chị Vân mà hầu hết các bệnh nhân khác cũng có cùng tâm trạng phấn khởi như chị.

Một số khó khăn khi áp dụng ở nước ta

Tuy việc áp dụng đinh đàn hồi Metaizeau vào chữa trị bệnh gãy xương rất hiệu quả nhưng khi áp dụng ở nước ta cũng còn vấp phải một số khó khăn nhất định. Ðó là vấn đề thiếu thiết bị, do phương pháp đòi hỏi phải có bàn chỉnh hình (để giúp bệnh nhân nắn, chỉnh xương, luồn xương vào ống tủy và định vị các đầu đinh một cách chính xác). Hơn nữa, đội ngũ bác sĩ chuyên về phẫu thuật loại hình này chưa nhiều và còn thiếu kinh nghiệm. Có lẽ vì thế mà mới được thực hiện ở một số ít các bệnh viện lớn trong nước.

Một khó khăn nữa là giá thành còn quá cao. Mỗi trường hợp chữa trị (chỉ tính riêng tiền đinh) từ 300-500 ngàn đồng (Vì toàn bộ đinh Metaizeau đều phải nhập khẩu). Song, rất may mắn là vừa qua, bác sĩ Nguyễn Thái Sơn đã tìm ra được phương pháp sản xuất đinh trong nước thay thế đinh nhập khẩu, vẫn hội đủ những tiêu chuẩn của đinh Metaizeau nhập khẩu nhưng giá thành lại rẻ hơn rất nhiều. Nhờ đó đã giúp nhiều bệnh nhân nghèo có điều kiện được chữa trị. Phương pháp chữa gãy xương bằng đinh đàn hồi Metaizeau đã thực sự đánh dấu một bước phát triển mới của nền y học nước nhà.Theo YKhoa net

25/06/2008

Bệnh khớp thoái biến (Degenerative joint disease)

Bác sĩ Nguyễn Văn Đức
8748 E. Valley Blvd. # H
Rosemead, CA 91770
(626) 288-3306
Khớp (joint) là các chỗ những đầu xương nối với nhau. Trong khớp có nhiều cơ cấu rất tinh vi, phối hợp hoạt động để khớp vừa vững chắc vừa linh động. Sụn khớp (articular cartilage), phần quan trọng của khớp, bao bọc các đầu xương như một lớp đệm, giúp các đầu xương trong khớp nhẹ nhàng trượt lên nhau khi khớp chuyển động.
Ở Mỹ đã lâu, chúng ta cần hòa nhập vào dòng y khoa Mỹ, dùng những từ y khoa Mỹ họ dùng: đau cổ (neck pain), đau vai (shoulder pain), đau khuỷu tay (elbow pain), đau cổ tay (wrist pain), đau lưng (back pain), đau lưng dưới (low back pain), đau hông (hip pain), đau gối (knee pain), đau cổ chân (ankle pain), đau khớp (joint pain), viêm khớp (arthritis: khớp vừa đau, vừa sưng to, nóng đỏ). Nên bỏ hai chữ “phong thấp” vào sọt rác quá khứ, vì những chữ này mơ hồ, không biết dịch sang tiếng Anh thế nào. Xin nhớ, vào nhà thương, các bác sĩ, y tá họ nói tiếng Anh, chúng ta cần dùng đúng chữ để họ hiểu (nếu cần thông dịch, người thông dịch cũng dịch được dễ dàng). Các thuốc Ibuprofen, Motrin, Aleve, Celebrex, ..., thuần túy, chỉ là thuốc chống đau như Tylenol, Aspirin, không nên gọi chúng là “thuốc phong thấp”.
Bệnh khớp nhiều lắm. Ba bệnh khớp làm khổ chúng ta nhiều nhất: “osteoarthritis”, (bệnh viêm xương-khớp), “rheumatoid arthritis” (bệnh viêm khớp rheumatoid) và “gout” (thống phong). Hôm nay, chúng ta tìm hiểu bệnh “osteoarthritis”, tên khác dễ hiểu hơn: “degenerative joint disease” (bệnh khớp thoái biến).
Bệnh khớp thoái biến xảy ra nhiều nhất trong các loại bệnh khớp. Ở Mỹ, đến 12% dân số mang bệnh khớp thoái biến, và với các vị trên 70 tuổi, tỉ lệ gần 35% (tức cứ 3 người, 1 người bị). Rất nhiều vị, đi từ phòng ngủ sang phòng tắm cũng khó khăn, vì khớp gối, khớp hông đau nhức quá.
Đời người chúng ta ví như chiếc xe hơi, chập chững chạy đầu đời, bon bon chạy giữa đời, rồi chậm dần vào cuối đời. Do máy đã rêm, bánh đã mòn. Các khớp của ta giống những bánh xe hơi, dùng lâu tất mòn. Bệnh khớp thoái biến gây do sự mòn lở của sụn khớp (articular cartilage), nhất là ở những vùng sụn phải trực tiếp nâng đỡ sức nặng của cơ thể. Do thế, bệnh thường tấn công các khớp mang sức nặng (hông, gối, lưng dưới, ...), hoặc khớp sử dụng nhiều trong công việc hàng ngày (các khớp ngón tay, khớp nơi gốc ngón tay cái).
Dưới tuổi 55, các khớp mòn giống nhau ở cả nam lẫn nữ. Tuổi cao hơn, khớp hông bị nhiều hơn ở đàn ông, còn phụ nữ hay có bệnh ở các khớp ngón tay và gốc ngón cái. Phụ nữ cũng đau khớp gối nhiều hơn đàn ông.
Ai dễ bị bệnh khớp thoái biến?
Nhiều yếu tố đưa ta đến với bệnh khớp thoái biến:
- Tuổi tác: yếu tố quan trọng nhất. Càng cao tuổi, các khớp ta càng dễ hao mòn.
- Phái tính: phụ nữ dễ mang bệnh hơn đàn ông. (Phải chăng, so ra, nữ giới vẫn phải làm việc nhiều hơn nam giới, việc sở, việc nhà?).
- Chấn thương: những khớp trước từng bị chấn thương hoặc sử dụng nhiều quá dễ mang bệnh. Chẳng hạn, người vũ ballet hay có bệnh ở khớp cổ chân. Ngược lại, các võ sĩ boxing hay mang bệnh ở khớp nối bàn tay và ngón tay. Người làm những nghề nghiệp cần quì gối dễ mang bệnh ở khớp gối.
- Nặng cân: xe nặng, bánh tất mau mòn. Người nặng, khớp mau hư, nhất là khớp gối.
- Bệnh bẩm sinh: khiến khớp bất thường ngay từ lúc mới sanh.
- Bệnh nội tiết: tiểu đường, suy tuyến giáp trạng, ...
Định bệnh
Ta đã biết, trong khớp có sụn khớp (articular cartilage), bao bọc các đầu xương như một lớp đệm, giúp các đầu xương nhẹ nhàng trượt lên nhau khi khớp chuyển động. Bệnh khớp thoái biến gây do sự mòn lở của sụn khớp. Khi sụn mòn hoặc lở vỡ, các đầu xương không còn uyển chuyển trượt lên nhau, nên gây đau nhức, cứng khớp, ...
Tuy vậy, rất nhiều trường hợp bệnh không gây đau gì cả. Có người chẳng bao giờ đau, tình cờ chụp phim, phim chụp cho thấy khớp đã mòn.
Đau khớp, nếu xảy ra, trong giai đoạn đầu, thường là cái đau âm ỉ, cảm thấy sâu trong khớp bệnh: khớp lưng, hoặc khớp hông, khớp gối, khớp ngón tay, ... Người bệnh thấy đau nhiều hơn khi đi lại, sử dụng khớp, và bớt đau lúc nghỉ ngơi. Khi bệnh tiến triển đến giai đoạn nặng hơn, cái đau thành liên tục, làm khổ cả vào ban đêm.
“Công chúa đứt tay, ăn mày đổ ruột”. Mỗi người chúng ta cảm nhận cái đau một khác. Cùng một mức độ bệnh lý của khớp, phụ nữ than đau nhiều hơn đàn ông, người hưởng trợ cấp than đau nhiều hơn người đi làm, và người ly dị than nhiều hơn người có gia đình hạnh phúc. Người ta cho rằng trong bệnh khớp thoái biến, như chứng đau lưng, như nhiều bệnh khác, những yếu tố tâm lý và xã hội có ảnh hưởng quan trọng, khiến người bệnh cảm thấy đau nhiều hay ít.
Triệu chứng quan trọng khác là cứng khớp (stiffness). Khớp thường cứng vào buổi sáng mới ngủ dậy hoặc sau lúc nghỉ ngơi một thời gian ngắn trong ngày. Cứng khớp không kéo dài lâu, chỉ khoảng 20 phút.
Đến giai đoạn nặng, khớp mất hình dạng bình thường, méo mó, to lên, và không còn gập, duỗi được hết mức. Có khi, đang đi, khớp khựng lại. Khớp sờ thấy đau, hoặc sưng và hơi nóng. Khi khớp chuyển động, sờ như thấy các đầu xương trong khớp chạm vào nhau, kêu “lục cục lạc cạc”.
Sự định bệnh dựa vào bệnh sử (triệu chứng do người bệnh kể), sự thăm khám, và phim chụp. Phim chụp cho thấy hai đầu xương trong khớp sát vào nhau ở chỗ sụn bị mòn, có khi thấy những chồi xương mọc ra bất thường. Khi sụn khớp mòn nhiều, trên phim, khớp lệch lạc thấy rõ (subluxation), mất hình dạng bình thường.
Điểm đáng chú ý là triệu chứng và mức độ tàn tật do bệnh gây nên, nặng hay nhẹ, thường không ăn khớp với phim chụp. Nếu đem 100 người trên 40 tuổi ra chụp phim, theo phim chụp, 90 người sẽ có những thay đổi bất thường ở các khớp nâng đỡ sức nặng cơ thể (lưng dưới, hông, gối, ...), tuy vậy, chỉ 30 người có triệu chứng đau nhức. Đau dữ hay ít, như đã bàn, còn tùy thuộc nhiều yếu tố, đặc biệt những yếu tố tâm lý và xã hội.
Chữa trị
Sự trị liệu nhắm mục đích giảm đau, giúp các khớp duy trì được cơ năng, và hoạt động bình thường.
Những trường hợp bệnh nhẹ, người bệnh chỉ cần được trấn an, chỉ dẫn cách vận động, thu xếp công việc hàng ngày để tránh những hoạt động khiến khớp dễ tổn thương thêm, và thỉnh thoảng uống thuốc giảm đau nếu cần. Với những trường hợp nặng hơn, có thể phải phối hợp nhiều phương pháp chữa trị khác nhau:
1. Vận động:
Bắp thịt và xương, khớp như anh em ruột thịt, phối hợp, giúp đỡ nhau trong lúc hoạt động. Bắp thịt quanh khớp nếu dẻo dai, vững chắc sẽ giúp khớp bớt làm việc, hoặc làm việc hữu hiệu hơn, và cái đau sẽ nhẹ đi.
Các vận động nhẹ nhàng, không đặt nhiều sức nặng trên khớp (low-impact, nonweight-bearing) rất tốt. Bơi lội tuyệt nhất. Không thì những thể dục năng động nhẹ (low-impact aerobics exercises), hoặc các cách tập đặc biệt dùng cho người mang bệnh khớp. Đạp xe đạp đều có thể làm bớt đau khớp gối bị bệnh. Một chuyên viên thấu đáo về việc tập luyện cho người mang bệnh khớp (physical therapist) có thể giúp ta rất nhiều, chỉ dẫn cho ta những cách tập đúng với nhu cầu của tật bệnh ta.
Kiên nhẫn là mẹ thành công. Tập 4-5 lần mỗi tuần, đều như vậy, sau hai tháng, thường sẽ bắt đầu thấy có tiến triển tốt.
2. Đắp, thoa tại chỗ:
- Ấp nhiệt (khăn, bình nước nóng, heating pad, ...) vào khớp đau có thể giúp khớp bớt đau và cứng. Cách giản dị và rẻ tiền là tắm nước ấm vào buổi sáng lúc khớp hay bị cứng. Có vị thấy bớt đau khi dùng nước đá thay vì dùng nhiệt.
- Một loại kem được xem có tác dụng giảm đau, mua bên ngoài không cần toa bác sĩ là capsaicin cream. Thoa kem capsaicin ngày vài lần trên khớp, có khi bạn không cần uống thuốc giảm đau nữa. Kem capsaicin rất hữu hiệu cho các khớp gối và bàn tay. Khi mới dùng, có thể thấy nóng ở chỗ thoa thuốc, song tiếp tục dùng, phản ứng khó chịu này sẽ bớt dần.
3. Tránh bắt khớp bệnh làm việc quá sức:
- Luôn giữ cơ thể trong tư thế thẳng thắn. Khi nghỉ ngơi, học hành, làm việc, lái xe, bạn nên ngồi ghế có lưng tựa thoải mái (thêm tay dựa càng tốt), sát người vào lưng ghế, để lưng ghế nâng đỡ cơ thể bạn cho thẳng, giúp các khớp xương, bắp thịt lưng và cổ không mỏi.
- Trong công việc hàng ngày, bạn xếp đặt công việc và dụng cụ làm việc hợp lý, thuận tầm tay, vừa tầm mắt, hầu khỏi cong cúi nhiều trong lúc làm việc. Đồng thời, ứng dụng tinh thần “chị ngã em nâng”, sử dụng càng nhiều khớp càng tốt trong lúc làm việc. Chẳng hạn, bưng tách cà phê với cả hai tay, nâng bình cà phê bằng cách đỡ cả trên lẫn dưới (một tay đỡ đáy bình, một tay xách quai xách phía trên), ... Với cách này, lực tác động sẽ lan tỏa, không khớp nào phải làm việc quá sức.
Cũng nhớ, khi nhặt vật gì dưới đất, thay vì cúi lưng, bạn cong hai gối trong lúc giữ lưng cho thẳng. Khi bưng bê vật nặng, bạn đưa sát vào người, từ từ đứng lên, trong lúc vẫn thẳng lưng. Nếu vật quá nặng, cách tốt nhất là nhờ thêm người khác giúp sức.
- Người bị bệnh mòn khớp hông hay khớp gối nên tránh đứng, quì, ngồi chồm hổm (squatting) lâu.
- Xe nặng, bánh mau mòn. Nên xuống cân nếu béo mập.
- Giữ sự cân bằng giữa hoạt động và nghỉ ngơi. Những dịp nghỉ ngắn (10-20 phút) trong ngày giúp các khớp nghỉ ngơi sau những lúc hoạt động.
- Người bị bệnh mòn khớp gối hay khớp hông một bên, có thể dùng gậy chống (cầm bằng tay bên không đau) để nâng đỡ cơ thể trong lúc đi lại, giúp các khớp đau đỡ làm việc trong lúc đi lại.
- Giày thể thao loại tốt, hấp thu bớt các sức tác động (impact-absorbing shoes), giúp giảm sức nặng đè trên các khớp ở chân, có thể khiến bớt đau khi đi lại, và có lẽ cũng làm chậm đà tiến triển của căn bệnh. Khổ nỗi, các cụ ta ít quen đi giày thể thao, thích đi dép cao su, dép Nhật cho nhẹ, thoáng, và chỉ... vài đồng một đôi.
3. Chữa trị bằng thuốc:
Thuốc giúp bớt đau. Những trường hợp đau nhẹ hoặc vừa, ta dùng Tylenol là đủ, rẻ, lại an toàn. Không mang bệnh gan hay thận, ta có thể dùng đến 8 viên Tylenol 500 mg mỗi ngày (2 viên ngày 4 lần). Những thuốc giảm đau chứa chất nha phiến như Tylenol số 2, số 3, Vicodin, ... thường không cần thiết, vì tác dụng không dài. Hơn nữa, dùng liên tục, lâu ngày, thuốc có thể sẽ mất tác dụng và gây nghiện.
Các thuốc chống viêm không chứa chất steroid (non-steroid anti-inflammatory drugs, viết tắt NSAID) như Advil, Nuprin, Motrin, ... làm bớt đau và cứng khớp. Dùng Tylenol không bớt đau, ta có thể dùng đến những thuốc loại này. Cái bất lợi là, dùng lâu ngày, chúng có thể gây khó chịu, lở bao tử, chảy máu đường tiêu hóa, và hại cho thận, ... Dùng những thuốc này, ta nên uống lúc bụng no (đang ăn hoặc sau khi ăn). Thấy khó chịu vùng bụng trên, hoặc đi cầu ra phân đen, bạn nên ngưng thuốc và cho bác sĩ biết ngay. Một thuốc giảm đau khác có tên Ultram, cũng giúp nhiều người bớt đau, nhưng không gây những tác dụng độc hại như các thuốc trên. Tất nhiên, nó có thể gây những tác dụng phụ khác.
Gần đây, một số tài liệu đề cập đến việc dùng chất glucosamine và chất chondroitin để chữa bệnh khớp thoái biến, cho rằng hai chất này có khả năng giúp sửa chữa, tái tạo sụn khớp, và bổ khuyết lượng chất nhờn cần có trong khớp. Chúng tác dụng chậm, ít nhất 4 tuần mới công hiệu, và cũng có thể gây một số tác dụng phụ. Sự an toàn và hiệu quả về lâu về dài của thuốc chưa được biết rõ. Thuốc mua bên ngoài không cần toa, bạn có thể thử, song nên cho bác sĩ biết.
Ngoài các thuốc uống, trong nhiều trường hợp, bác sĩ cũng chích thuốc chứa chất steroid hoặc thuốc Synvisc thẳng vào khớp giúp khớp bớt đau.
4. Giải phẫu:
Giải phẫu dùng cho những trường hợp bệnh quá nặng gây đau nhức liên tục, chữa trị hết mức bằng những phương pháp nội thương song không kết quả. Có nhiều phương pháp giải phẫu khác nhau:
- Thay hẳn một khớp: khớp hông, khớp gối nay có thể thay.
- Gọt bớt xương (osteotomy).
- Mài bớt sụn (chondroplasty, abrasion arthroplasty).
- Đưa ống soi vào khớp, dọn dẹp những chỗ bị hư hoại trong khớp.
Sau cùng, ta cũng đừng quên vai trò của tinh thần trong sự chữa trị bệnh khớp thoái biến. Tinh thần và thể xác tuy hai nhưng là một. Trong điều kiện sức khỏe cho phép, nên thường xuyên vận động, hầu giúp cơ thể khỏe mạnh. Thể xác khỏe khoắn, ta thấy yêu đời, yêu người, đỡ căng thẳng tinh thần, và cảm nhận cái đau ít hơn. Một thể xác khỏe mạnh, một tinh thần lạc quan, một lý tưởng hoặc triết lý sống trong sáng, đấy là những viên thuốc bổ của đời sống. Xin biên toa để bạn dùng hàng ngày. (Báo dân quyền)

05/06/2008

Cấy ghép xương nhân tạo từ tính-kỹ thuật mới tạo độ bền trong ngành phục hồi chức năng


Ảnh chụp xương cấy ghép

Việc cấy ghép xương nhân tạo có thể giúp sửa chữa những chỗ xương bị gãy nhưng chúng lại ngăn không cho các tế bào xương tự nhiên phát triển lành mạnh xung quanh chỗ ghép và khiến cho mối nối giữa xương ghép nhân tạo với xương tự nhiên bị lỏng lẻo.

Các nhà khoa học đã thử nhiều cách khác nhau để thúc đẩy sự phát triển của tế bào xương tự nhiên quanh chỗ ghép đồng thời ngăn chặn sự viêm nhiễm. Một trong những cách mà họ đã tiến hành là tiêm các loại hormone tăng trưởng vào chỗ xương cấy ghép và sử dụng các kháng thể cũng như các loại thuốc chống viêm nhiễm. Tuy nhiên, các phương pháp này chỉ dùng được một liều duy nhất. Nếu biến chứng sau ghép xương tái xuất hiện thì buộc lòng các bác sĩ phải phẫu thuật chứ không còn cách nào dùng đến biện pháp can thiệp không xâm lấn.

Các nhà khoa học có thể gắn thuốc vào những hạt nam châm, đưa chúng vào cơ thể và hướng chúng đến những khu vực cần đến bằng cách sử dụng từ trường ở bên ngoài. Tuy nhiên, việc dùng từ trường bên ngoài để giữ cho các hạt nam châm chứa thuốc cố định một chỗ trong nhiều giờ hay nhiều ngày là một chuyện khó khả thi.

Vì vậy, bác sĩ phẫu thuật Zachary Forbes của Khoa Y dược thuộc trường đại học Drexel ở bang Philadelphia, Mỹ nói cần phải cấy ghép xương nhân tạo từ tính để đơn giản là giữ cho các hạt nam châm dính chặt vào xương và chạy quanh xương. Ông Forbes còn cho biết thêm các nhà nghiên cứu đã rắc thêm bột từ tính polymer sinh học vào chỗ xương cấy ghép để giúp cho xương giữ được đặc tính dẫn từ của mình trong một thời gian dài. Họ cũng dùng từ trường mạnh ở bên ngoài để điều khiển các hạt nam châm chứa thuốc giống như cách đã làm ở trên.

  • Tố Uyên (theo New Scientist) 03/06/2008
Báo Bình Định

20/02/2008

BV Quân Y 13: Thực hiện thành công ca phẫu thuật thay khớp háng nhân tạo

Mới đây, được sự hỗ trợ của Phó giáo sư, Tiến sỹ Trần Đình Chiến - Chủ nhiệm bộ môn chấn thương chỉnh hình Học viện quân y, các bác sỹ Bệnh viện Quân y 13 lần đầu tiên thực hiện thành công ca phẫu thuật thay khớp háng nhân tạo bằng phương pháp thay khớp háng ít xâm lấn.
Bệnh nhân là bà Phạm Thị Lệ Tú (74 tuổi) ở phường Nguyễn Văn Cừ, TP Quy Nhơn bị tai nạn được đưa vào bệnh viện điều trị trong tình trạng bị gãy cổ xương đùi chân trái và phương án điều trị duy nhất là phẫu thuật thay khớp. Đây cũng là đề án mà tập thể lãnh đạo và cá bác sỹ bệnh viện đã và đang theo đuổi học tập thực hiện. Chỉ sau 45 phút, kíp mổ bao gồm 7 bác sỹ Bệnh viện quân y 13 đã thực hiện thành công ca phẫu thuật thay khớp háng nhân tạo cho bà Tú .
Với phương pháp mổ thay khớp ít xâm lấn, việc phẫu thuật sẽ hạn chế tối đa đến tổn thương cơ, mất máu và bệnh nhân có thể đi lại được trong vòng 4 ngày sau mổ. Sự thành công phương pháp mới này mở ra khả năng điều trị chấn thương gãy xương cho bệnh nhân của bệnh viện.
Tự Lực - Bảo Long 16:47', 18/2/ 2008 (GMT+7) Báo Bình Định

01/02/2008

Ghép sụn khớp - Hy vọng cho người thoái hóa khớp

Khi tuổi thọ của con người ngày càng tăng thì các bệnh lý liên quan đến lão hóa cũng ngày một nhiều, trong đó thoái hóa khớp là một bệnh điển hình. Theo nhiều nghiên cứu trên thế giới thì thoái hóa khớp là nguyên nhân chính gây tàn tật cho người già, đứng thứ hai sau các bệnh tim mạch.
Trong những năm gần đây, việc chẩn đoán và điều trị bệnh đã có nhiều tiến bộ, có những biện pháp đã được áp dụng rộng rãi trong thực hành lâm sàng như sử dụng các thuốc bảo vệ sụn khớp, thay khớp nhân tạo..., trong đó ghép tế bào sụn thay thế đang trở thành một biện pháp hứa hẹn nhiều triển vọng.
Sụn khớp có vai trò như thế nào?
Sụn khớp là một tổ chức rất đặc biệt, che phủ các đầu xương ở diện khớp làm cho các diện khớp được trơn bóng, giảm lực ma sát khi chúng trượt nên nhau, giúp cho con người có thể đi lại, vận động, sinh hoạt dễ dàng. Sụn có tính chất vừa chắc, cứng nhưng lại dẻo dai, đàn hồi, có tác dụng như một chiếc lò xo làm giảm áp lực tác động lên diện khớp khi vận động. Sụn khớp được cấu tạo từ hai thành phần chính là chất căn bản của sụn và các tế bào sụn. Chất căn bản của sụn có 3 thành phần chính là: nước (chiếm 80%), các sợi collagen (chủ yếu là collagen typ 2) và chất proteoglycan (chiếm 5 - 10%). Tế bào sụn có nhiệm vụ tổng hợp ra chất căn bản của sụn khớp, là những tế bào có tốc độ chuyển hóa thấp. Trong cơ thể sống, các tế bào sụn khớp ở người trưởng thành không có khả năng sinh sản và tái tạo. Một đặc điểm rất đặc biệt là tổ chức sụn khớp không có mạch máu trực tiếp nuôi dưỡng như các tổ chức khác, mà nó được nuôi dưỡng bằng con đường thẩm thấu nhờ tổ chức xương dưới sụn, màng hoạt dịch, dịch khớp.
Từ các đặc điểm cấu tạo và chức năng trên, nên trong thực tế, một khi sụn đã bị tổn thương thì nó rất khó liền. Khi sụn bị tổn thương, do chấn thương hay do bệnh lý làm lộ tổ chức xương dưới sụn khớp, các đầu xương cọ xát lên nhau làm cho khớp bị tổn thương nặng hơn, gây thoái hóa khớp, biểu hiện bằng triệu chứng đau và biến dạng khớp.
Tại sao bị thoái hóa khớp?
Bản chất của thoái hóa khớp là tổn thương sụn khớp, nhưng nguyên nhân thực sự làm tổn thương sụn khớp vẫn còn nhiều bàn luận. Các nhà khoa học cho rằng có hai yếu tố quan trọng và chúng không thể tách rời nhau, đó là: các yếu tố cơ học (lực tác động lên sụn khớp, các vi chấn thương lặp lại nhiều lần, tăng bất thường lực nén trên một đơn vị diện tích của mặt khớp) và các yếu tố sinh học (các tế bào bị già đi theo thời gian, mặt khác khi các yếu tố cơ học tấn công tác động trực tiếp lên mặt sụn đồng thời gây ra sự hoạt hóa và sự giải phóng các enzym, làm thoái biến chất cơ bản, sau đó là phá hủy sụn khớp). Sự thay đổi cấu trúc này dẫn đến việc tạo sụn khớp bị suy giảm, kéo theo sự tích nước tại mô sụn, làm giảm độ chắc và độ đàn hồi của sụn.
Ghép sụn khớp - hướng đi mới cho điều trị thoái hóa khớp
Ghép sụn khớp là một hướng đi mới cho điều trị thoái hóa khớp. Người ta có thể sử dụng hai phương pháp là cấy ghép sụn tự thân (Autograft-lấy chính sụn của bệnh nhân để ghép cho chính họ) và cấy ghép sụn đồng loại (Allograft-lấy sụn của người khác ghép cho bệnh nhân), trong đó cấy ghép tự thân là chủ yếu.
Có hai cách ghép là ghép cả xương và sụn và ghép tế bào sụn.
Ghép cả xương và sụn: Người ta tiến hành lấy một mảnh xương có sụn bao phủ ở vị trí không hoặc ít chịu lực và việc lấy mảnh xương sụn đó không ảnh hưởng gì lớn đến hậu quả vận động của khớp sau này đem ghép trực tiếp vào vị trí sụn bị tổn thương, để tạo hình lại bề mặt trơn nhẵn của sụn khớp. Nhiều nghiên cứu đã công bố những kết quả đáng khích lệ trong những năm đầu, tuy nhiên còn ít các báo cáo về tác dụng lâu dài nhằm dự phòng thoái hóa khớp thứ phát sau chấn thương của phương pháp này. Kỹ thuật này đã bắt đầu được tiến hành ở một số bệnh viện ở nước ta.
Ghép tế bào sụn tự thân: Các tế bào sụn khớp được lấy ra từ sụn khớp, các tế bào này được nuôi cấy trong một môi trường đặc biệt để chúng được nhân lên, rồi nó được ghép vào nơi thiếu hụt sụn khớp.
Kỹ thuật này bao gồm nhiều công đoạn: Đầu tiên là tiến hành nội soi khớp để xác định vị trí sụn bị tổn thương chuẩn bị cho ghép sụn, lấy một mảnh tổ chức sụn ở vùng khớp không bị tổn thương. Các tế bào sụn được nuôi cấy trong một môi trường giàu dinh dưỡng, có các yếu tố tăng trưởng đặc biệt trong vài tuần và các tế bào này được nhân lên nhiều lần về số lượng. Sau đó các tế bào sụn được cấy ghép vào vị trí sụn bị thiếu hụt và phải mất vài tháng, các tế bào sụn này mới chuyển thành tổ chức sụn bình thường. Kỹ thuật này mới được sử dụng ở một số trung tâm lớn ở các nước phát triển.
Gần đây, các nhà khoa học vừa công bố kết quả rất khả quan về khả năng tái tạo của tế bào sụn khớp (trong môi trường nuôi cấy đặc biệt) của bệnh nhân thoái hóa khớp nặng đòi hỏi phải thay khớp, mở ra triển vọng lớn cho hướng điều trị căn bệnh này trong tương lai.
Theo Sức Khoẻ&Đời Sống Ref. CIMSI

25/01/2008

Project HOPE with Navy Missions

Navy Missions: View Photos of Volunteers at Work
The first rotation of Project HOPE volunteers boarded the USNS Comfort this month on a 12-city, 12-country humanitarian assistance mission to Central and South America.
Project HOPE volunteers began their service in Belize, treating patients in medical clinics on land as well as performing operations at sea. Volunteers have also conducted medical training and medical supplies and medicines have been donated to Belize's hospitals and clinics.
The USNS Comfort mission is just one of three missions that Project HOPE will partner with the U.S. Navy this year. Staffed with Project HOPE volunteer doctors, nurses and other health care professionals, the U.S. Navy hospital ship Comfort will visit coastal communities in Belize, Guatemala, Panama, Nicaragua, El Salvador, Peru, Ecuador, Colombia, Haiti, Trinidad & Tobago, Guyana and Surinam. Project HOPE will send 88 volunteers on this mission, in four rotations, each lasting approximately 23 days, to help treat an expected 85,000 patients – including 55,000 children.

Later this summer, the USS Peleliu will visit Southeast Asia including coastal communities in Vietnam (where the SS HOPE sailed during the second half of its maiden voyage in 1960), Papua New Guinea, the Solomon Islands and the Marshall Islands. HOPE will send 63 volunteers on this mission, serving in three rotations, each lasting up to 19 days. In the fall, Project HOPE will accompany the Navy to West Africa.

Along with the volunteer support, Project HOPE is seeking to provide an estimated $6 million worth of donated medicines (including vaccines, antibiotics and basic supplies) in support of each operation.
The humanitarian voyages with the U.S. Navy will be similar in scope to the two previous joint missions - the 2005 Tsunami Response, which provided direct medical support on the ship and ashore to the victims of the December 2004 tsunami and the 2006 Mission of HOPE and Mercy which revisited the area to provide medical help and expertise to those still suffering from the effects of the tsunami.
Dr. Nick Morris, a surgeon, and his wife, Madelyn, a certified registered nurse specializing in surgery assistance, volunteered on the 2006 Mission of HOPE and Mercy. He is volunteering again this summer aboard the Comfort. Dr. Morris describes his volunteer mission with HOPE as life changing.

“It was really like I was closing the loop on my childhood ambitions for becoming a doctor,” Dr. Morris said. “I felt like this was something I had been looking for all my life and God said, ‘Here, this is my gift to you.”’
This unique public-private partnership distinctly recalls the days of the SS HOPE hospital ship, and represents a rebirth of the volunteer spirit on which Project HOPE was founded 49 years ago. During its 14 years of service, from 1960 to 1974, the SS HOPE, staffed by medical volunteers, made 11 voyages to countries around the world – including several of those scheduled for visits by the Comfort and Peleliu this year (Vietnam, Peru, Ecuador, Nicaragua and Colombia). When it was retired, the SS HOPE had become a symbol of American goodwill and compassion.
Check back for regular updates on our missions. (Ref. http://www.projecthope.org/headlines/view.asp?id=12387991)

Biến chứng cơ xương khớp của bệnh đái tháo đường

TS. Đào Hùng Hạnh (Bệnh viện Bạch Mai)
(Cập nhật: 11/1/2008)
Đái tháo đường (ĐTĐ) đang gia tăng hằng năm trên thế giới kể cả ở nước phát triển và nước đang phát triển. Kéo theo hậu quả của nó là hàng loạt các biến chứng nguy hiểm, trong đó biến chứng cơ, xương, khớp là những biến chứng điển hình. Không chỉ kiểm soát đường huyết tốt mà người bệnh cần biết đến các biến chứng này để phòng ngừa.
Bệnh lý khớp ở người ĐTĐ
Viêm sụn khớp ở người đái tháo đường
Còn gọi là bệnh lý khớp do nguyên nhân thần kinh, hay bệnh Charcot, đây là thể nặng của thoái hóa khớp, phá hủy khớp nhanh và nhiều, hậu quả của giảm và mất cảm giác tại khớp, gây ra các chấn thương liên tiếp, lặp đi lặp lại nhiều lần. Biểu hiện này hiếm gặp, thường ở bệnh nhân bị bệnh đã lâu. Khám lâm sàng phát hiện các dấu hiệu của bệnh lý thần kinh ngoại biên, da có thể thay đổi như đỏ tím, phù nề, tăng sắc tố, tổ chức phần mềm bao phủ khớp có thể bị viêm, loét, khớp bị lỏng lẻo và biến dạng. Các dấu hiệu Xquang thường nhẹ hơn so với các dấu hiệu lâm sàng. Tùy vào mức độ bệnh mà có thể thấy các tổn thương như bán trật khớp, các mảnh xương, tiêu xương, phản ứng màng xương, biến dạng, dính khớp... Cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh lý khác như nhiễm khuẩn, viêm tắc tĩnh mạch sâu... Điều trị biến chứng này khá phức tạp, chủ yếu là đi giày dép chỉnh hình, chăm sóc, vệ sinh thật tốt kết hợp với kiểm soát tốt đường máu.
Thoái hóa khớp: Người ta chưa chứng minh rõ ràng rằng ĐTĐ là yếu tố nguy cơ của thoái hóa khớp. Tuy nhiên, khoa học đã xác nhận rằng béo phì là yếu tố nguy cơ quan trọng của cả ĐTĐ và thoái hóa khớp. Thoái hóa khớp có thể gặp ở cả khớp lớn và khớp nhỏ.
Biểu hiện ở cơ
Biến chứng bàn chân
Tổn thương viêm loét hoại tử đầu chi do tổn thương vi mạch gây loét, hoại tử, viêm xương, nhiễm khuẩn huyết là một biến chứng rất nặng của bệnh ĐTĐ. Cần phải kiểm soát tốt đường huyết và chăm sóc vệ sinh bàn chân thật tốt, theo dõi màu sắc da cẩn thận, đi giày dép chỉnh hình thích hợp. Bệnh nhân phải đi dép, giày mềm thường xuyên, tránh va đập. Nhồi máu trong cơ là một biến chứng hiếm gặp. Biến chứng này thường tự phát, không có tiền sử chấn thương, hay gặp ở bệnh nhân không được điều trị tốt với nhiều biến chứng mạch máu, thần kinh. Biểu hiện lâm sàng là đau đột ngột, dữ dội và sưng nề vùng cơ bị nhồi máu (thường ở đùi hoặc cẳng chân). Men cơ (CPK) có thể bình thường hoặc tăng nhẹ. Cần chẩn đoán phân biệt với khối u, viêm cơ, áp - xe cơ, cốt tủy viêm, viêm tắc tĩnh mạch sâu. Chụp cộng hưởng từ thấy tăng tín hiệu trên tần số T2. Sinh thiết cơ thấy cơ bị phù nề và hoại tử. Điều trị bằng thuốc giảm đau và nghỉ ngơi, các triệu chứng sẽ hết sau vài tuần.
Teo cơ ĐTĐ do thiếu máu nuôi dưỡng cơ gây nên tình trạng mỏi cơ và đau. Thường gặp ở bệnh nhân trên 50 tuổi, biểu hiện bằng đau, yếu cơ và teo cơ gốc chi như cơ thắt lưng chậu, cơ tứ đầu đùi, cơ khép đùi gây khó khăn khi thực hiện một số động tác như đứng lâu, chuyển từ tư thế ngồi sang đứng hay lên thang gác.
Biểu hiện ở xương
Hội chứng tăng tạo xương lan tỏa nguyên phát (DISH) hay bệnh Forestier, đặc trưng bởi tình trạng loạn sản, canxi hóa dây chằng cột sống kết hợp với hình thành các gai xương. Tuy nhiên khe đĩa đệm, khớp mỏm sau và khớp cùng-chậu đều bình thường. Đoạn cột sống ngực là vùng hay bị tổn thương nhất, và ở bệnh nhân týp 2, béo phì, ngoài ra có thể gặp vôi hóa ở các vị trí khác. Triệu chứng thường gặp là đau, hạn chế vận động, cứng vùng gáy và lưng. Điều trị bằng các thuốc NSAID, giãn cơ, giảm đau và vật lý trị liệu.
Tình trạng loãng xương: thường gặp ở bệnh nhân týp 1, người gầy. Những bệnh nhân týp 2 thường béo nên khối xương ít thay đổi.
Tóm lại: ĐTĐ gây ra rất nhiều biến chứng đối với bộ máy vận động, làm ảnh hưởng đến sinh hoạt và chất lượng cuộc sống. Hầu hết các biến chứng này có thể điều trị được, nhưng chúng thường bị bỏ qua hoặc đánh giá, điều trị không đúng trong thực hành hằng ngày. Nâng cao ý thức và hiểu biết về bệnh, điều trị đúng sẽ giúp cho người bệnh hoàn toàn có thể tự lập được trong công việc và nâng cao chất lượng cuộc sống của họ. (http://www.suckhoedoisong.vn/details.asp?Object=71133788&News_ID=11158122)

Nguy cơ mất chi do gãy cẳng chân

ThS. Trần Quốc An
(Cập nhật: 16/1/2008)
Xương chày hay bị gãy nhất trong các thân xương dài, chiếm tỷ lệ khoảng 18 % các loại gãy xương. Gãy xương cẳng chân dễ bị gãy hở, gãy nhiều mảnh và tổn thương phần mềm nặng. Nếu bị gãy đầu trên xương có các biến chứng mạch máu dẫn đến nguy cơ mất chi; Nếu gãy đầu dưới xương, vì mạch máu nuôi nghèo nàn nên xương chậm liền, hay bị khớp giả.
Xương chày hay bị gãy nhất trong các thân xương dài, chiếm tỷ lệ khoảng 18 % các loại gãy xương. Gãy xương cẳng chân dễ bị gãy hở, gãy nhiều mảnh và tổn thương phần mềm nặng. Nếu bị gãy đầu trên xương có các biến chứng mạch máu dẫn đến nguy cơ mất chi; Nếu gãy đầu dưới xương, vì mạch máu nuôi nghèo nàn nên xương chậm liền, hay bị khớp giả.
Xương cẳng chân có đặc điểm cấu tạo như thế nào?
Hình ảnh gãy xương cẳng chân (xương chày và xương mác) trên phim Xquang.
Cẳng chân gồm hai xương: xương chày và xương mác, xương chày ở phía trong là chính, xương mác nằm ngoài là phụ. Xương chày là xương chịu áp lực chính từ thân người, nên khi chấn thương dễ gãy. Xương mác là xương dài, mảnh, cũng chịu áp lực lớn của trọng lượng cơ thể nên cũng dễ gãy do chấn thương. Xương chày, sát da, đầu trên to, hơi cong ra ngoài; đầu dưới nhỏ, hơi cong vào trong; đặc điểm của thân xương chày 2/3 trên lăng trụ tam giác, 3 mặt (trước ngoài - trong và sau), 1/3 dưới hình tròn, giao điểm là điểm yếu của xương. Mạch máu nuôi xương chày rất nghèo, càng xuống đầu dưới càng nghèo, nên gãy khó liền. Các cơ cẳng chân phân bố không đều, mặt trong cẳng chân không có cơ che phủ, xương chày nằm ngay dưới da. Mặt ngoài và mặt sau có nhiều cơ che phủ. Vì thế khi gãy 2 xương cẳng chân thường có di lệch gập góc ra ngoài và ra sau; đầu gãy thường chọc thủng da ở mặt trước trong. Lớp da vùng cẳng chân sát xương, kém đàn hồi, nên khi gãy xương, da dễ bị bầm giập, hoại tử.
Nguyên nhân nào làm gãy xương cẳng chân?
Do chấn thương trực tiếp: Tổn thương phần mềm là vết thương hở, bẩn; đường gãy thường ngang ở nơi bị va chạm, hai xương gãy ngang mức nhau, tổn thương phức tạp; Do chấn thương gián tiếp: thường do ngã, cẳng chân bị bẻ hoặc xoay làm gãy xương. Hay gãy chéo xoắn nơi xương bị yếu (chỗ nối 1/3 giữa và 1/3 dưới) hai xương gãy có thể cùng hoặc không ngang mức. Đường gãy: ngang, chéo vát, nhiều mảnh rời, 3 đoạn... Có thể có di lệch chồng, di lệch mở góc ra ngoài và ra sau, di lệch sang bên và di lệch xoay.
Biểu hiện khi gãy xương cẳng chân: Ngay sau chấn thương có điểm đau chói tại vùng tổn thương, mất vận động hoàn toàn, biến dạng chi, đo độ dài tuyệt đối và tương đối chi gãy ngắn hơn bên lành, trục chi lệch khi gãy có di lệch bàn chân đổ ngoài; lạo xạo xương gãy, cử động bất thường, có thể có mất hay giảm mạch mu chân. Chụp Xquang 2 tư thế thẳng và nghiêng, chụp toàn bộ cẳng chân lấy cả 2 khớp gối và khớp cổ chân thấy hình ảnh gãy xương.
Những biến chứng khi gãy xương cẳng chân: Biến chứng sớm có thể gặp là sốc, nhất là gãy xương hở; tổn thương mạch máu, thần kinh; chèn ép khoang; rối loạn dinh dưỡng; nhiễm khuẩn, nguy hiểm nhất là hoại thư và hoại thư sinh hơi. Ở giai đoạn muộn có thể gặp các biến chứng như: nhiễm khuẩn phổi, tiết niệu, loét điểm tỳ, chậm liền xương, khớp giả, can lệch, rối loạn dinh dưỡng muộn, teo cơ, hạn chế vận động khớp cổ chân, khớp gối...
Các phương pháp điều trị
Bảo tồn: bó bột ngay nếu gãy không hoặc ít di lệch; Gãy kiểu cành tươi ở trẻ em; bó bột có rạch dọc từ 1/3 trên đùi tới bàn chân, gối gấp nhẹ 7-10 độ. Để bột 5-7 ngày hết nề thì quấn băng tăng cường và để bột 8-10 tuần. Với trường hợp gãy ngang, sau 2 tuần bó bột cho tập đi. Gãy chéo xoắn thì sau 4 tuần mới tập đứng và đi có tỳ nén; nắn chỉnh trên khung nắn Bohler rồi bó bột khi gãy kín 2 xương cẳng chân có đường gãy ngang hay chéo vát. Trường hợp đến muộn, chi sưng nề lớn, cần xuyên đinh kéo liên tục qua xương gót, sau 7-10 ngày mới nắn chỉnh trên khung Bohler rồi bó bột.
Phẫu thuật, áp dụng với các trường hợp: gãy hở, gãy kín có tổn thương mạch máu và thần kinh và biến chứng chèn ép khoang, gãy mà nắn chỉnh không đạt yêu cầu, gãy không vững, di lệch lớn. Kết hợp xương bên trong: Đóng đinh nội tủy Kuntscher, đinh Rush. Đóng đinh xuôi dòng. Đinh nội tủy có chốt: loại đinh hay dùng là TWX, SIGN. Ưu điểm của phương pháp là không mở vào ổ gãy, ít nguy cơ nhiễm khuẩn tạo điều kiện cho liền xương thuận lợi hơn. Kết hợp xương bằng nẹp vít: gãy mở từ độ IIIA; gãy mở đến muộn; gãy kín có tổn thương phần mềm xấu. Ưu điểm là cố định ổ gãy vững chắc, phục hồi hình thể giải phẫu, tập vận động sớm. Nhược điểm: do phải lóc cốt mạc rộng nên ảnh hưởng tới nguồn nuôi dưỡng của ổ gãy. Khoan nhiều lỗ trên xương lành để bắt vít nên có nguy cơ nhiễm khuẩn cao. Kết hợp xương bằng khung cố định ngoài với các trường hợp: gãy hở từ độ IIIA trở đi; gãy hở đến muộn; gãy kín tình trạng phần mềm xấu; gãy hở nhiễm khuẩn. Loại khung cố định ngoài hay dùng: cọc ép ren ngược chiều, khung của F.E.S.S.A, khung của Ilizarov. (http://www.suckhoedoisong.vn/details.asp?Object=71133788&news_ID=16158420)

08/01/2008

Năm 2007, Việt Nam đã có bước tiến dài trong vấn đề người khuyết tật

Ngày 4/1/2008, tại Hà Nội, Văn phòng Điều phối các hoạt động Hỗ trợ người tàn tật Việt Nam (NCCD) đã tổ chức Hội nghị Tổng kết công tác năm 2007 và thông qua nhiệm vụ năm 2008. Đến dự có Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Đàm Hữu Đắc; bà Nguyễn Thị Xuân Mỹ, Chủ tịch Hội Bảo trợ Người tàn tật Việt Nam; ông Lương Phan Cừ, Phó Chủ nhiệm ủy ban các Vấn đề xã hội của Quốc hội cùng nhiều đại diện các tổ chức của/vì người khuyết tật (NKT).
Trong báo cáo trình bày trước hội nghị, ông Nghiêm Xuân Tuệ, Giám đốc NCCD cho biết, năm 2007, kinh tế nước ta tăng trưởng cao với chỉ số GDP đạt 8,5% và Chương trình xoá đói giảm nghèo thành công đã tác động trực tiếp đến đối tượng là NKT. Liên quan đến lĩnh vực NKT, trong năm có những sự kiện tiêu biểu như Công ước quốc tế về Quyền của NKT được Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua vào tháng 12/2006 đã được 120 quốc gia ký tham gia, ngày 22/10/2007, Việt Nam đã ký Công ước này. Đến nay, có 14 nước phê chuẩn Công ước; ủy ban Kinh tế – Xã hội Liên hợp quốc khu vực châu á - Thái Bình Dươngg tiến hành Hội nghị cấp cao liên Chính phủ khu vực đánh giá giữa Thập kỷ thứ II về NKT và thông qua Biwako +5 gồm những mục tiêu và chỉ số cho 5 năm cuối thập kỷ (2008-2012); NCCD kỷ niệm 7 năm thành lập. Tiếp đó, ông Tuệ cũng đè cập tới một số kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2007 của NCCD, bao gồm: - Điều phối, thúc đẩy các Bộ, ngành hữu quan thực hiện BMF/NAP: hỗ trợ NKT thành lập tổ chức của mình thông qua việc xúc tiến chuẩn bị thành lập Hiệp hội NKT Việt Nam. Đồng thời, có văn bản hướng dẫn quy trình thành lập Hội NKT cấp tỉnh, huyện, xã; Phối hợp với Hội NKT Hà Nội, Hiệpohoij sản xuất, kinh doanh của NKT và một số tổ chức liên quan thực hiện hiệu quả các chương trình mít tinh, giao lưu và sàn giao dịch việc làm của NKT; Triển khai thực hiện Chương trình nhắn tin nhân ái -10.000 máy tính dành cho NKT… - Tiếp nhận thông tin quốc tế liên quan đến tình hình NKT, làm đầu mối để các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi Chính phủ liên hệ về lĩnh vực này thông qua các Hội nghị cấp cao liên Chính phủ tại Thái Lan, Hội nghị toàn cầu Tổ chức NKT quốc tế tại Hàn Quốc, tiếp và làm việc với đại diện các tổ chức quốc tế, tổ chức NGOs đang hoạt động tại Việt Nam về lĩnh vực NKT. - Truyền thông nâng cao nhận thức về lĩnh vực NKT. Đây là hoạt động mà bà Nguyễn Thị Xuân Mỹ đánh giá rất cao, vì theo bà, mặc dù chúng ta đã nói nhiều về quyền của NKT nhưng hầu như chỉ dừng lại ở sự thương cảm, ban phát nhân đạo, nhưng đến thời điểm này, nhờ sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, ban ngành, các tổ chức có ủy viên NCCD và công tác truyền thông sâu rộng đến mọi đối tượng trong xã hội mà vấn đề NKT được nhìn nhận trên phương diện quyền, nghĩa là đã cộng thêm vấn đề trách nhiệm của toàn xã hội đối với NKT. - Thực hiện hoạt động hợp tác tiểu vùng, NCCD đã tổ chức chương trình giao lưu NKT 4 nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippin, Việt Nam về vấn đề đào tạo nghề, việc làm và tiếp cận du lịch. - Hợp tác quốc tế: đề xuất dự án “Nâng cao nhận thức của toàn xã hội, gồm cả NKTvề quyền của NKT Việt Nam trong khuôn khổ Công ước quốc tế về NKT”; thực hiện thoả thuận hợp tác với CRS; thực hiện dự án “Hệ thống giám sát và đánh giá quốc gia BMF tại Việt Nam”; thực hiện thoả thuận hợp tác với Hội Trợ giúp người tàn tật Việt Nam (VNAH). Nhìn chung, năm 2007, NCCD đã thực hiện được nhiều hoạt động lớn, nổi bật, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ban ngành hữu quan. NCCD đã thực hiện có hiệu quả vai trò điều phối, cơ quan tham mưu cho các cơ quan quản lý Nhà nước, tiếp nhận nhiều thông tin trong nước và quốc tế, nâng cao nhận thức của toàn xã hội, góp phần thay đổi nhận thức tích cực về quyền của NKT, giảm thiểu kỳ thị trong xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục và việc làm. Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Đàm Hữu Đắc đã đánh giá cao vai trò của NCCD. Thứ trưởng nhấn mạnh, trong năm 2008, các đơn vị phải tập trung “giải mã” nhiều vấn đề hiện nay vẫn là rào cản đối với NKT, chưa tạo được sự bình đẳng thật sự cho NKT. Thứ trưởng mong muốn thời gian tới, NCCD tiếp tục phát huy những thành quả đạt được, ngày càng vững mạnh, đáp ứng được nguyện vọng và nói lên tiếng nói của đông đảo NKT, một bộ phận gắn liền với xã hội chúng ta. Trong năm 2008, các Bộ, ngành liên quan đến lĩnh vực NKT như Bộ Nội vụ, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Xây dựng… sẽ tiến hành, thực hiện đồng bộ những nhiệm vụ thuộc 7 lĩnh vực ưu tiên. Đồng thời, NCCD cũng đề nghị các ủy viên phối hợp để thực hiện một số hoạt động: thúc đẩy các cơ quan hữu quan thực hiện chương trình, kế hoạch liên quan đến lĩnh vực NKT; hỗ trợ NKT thành lập Hiệp hội NKT Việt Nam; thực hiện thoả thuận hợp tác đã ký kết với các tổ chức quốc tế; đẩy mạnh công tác truyền thông; chuẩn bị đề án thành lập ủy ban quốc gia về NKT… Đăng Doanh (Tạp chí LĐXH)

Đời Sống-Gia Đình (VietBao VN)

Vui Cười (VietBao VN)

SƯU TẦM ĐỊA CHỈ ĐIỆN THOẠI TƯ VẤN SỨC KHOẺ:

Tư vấn miễn phí:

* Điện thoại của đường dây tư vấn hỗ trợ trẻ em 18001567 hoặc chương trình Cửa sổ tình yêu (04) 3 8262625 để được tư vấn miễn phí.
* Phòng tư vấn sức khỏe sinh sản Bệnh viện Từ Dũ TPHCM với các chương trình tư vấn chăm sóc sức khỏe phụ nữ trước, trong và sau sinh miễn phí dành cho các ông bố, bà mẹ: điện thoại (08) 3 8395117 (số nội bộ 368).
* Phòng tư vấn sức khỏe cộng đồng tại Bình Định: (có tư vấn về phòng chống HIV/AIDS): Địa chỉ liên hệ với Trung tâm Tư vấn sức khỏe cộng đồng: 419 Trần Hưng Đạo, Qui Nhơn vào tất cả các ngày trong tuần (trừ chủ nhật). ĐT: (056): 3 811 466. Trung tâm tư vấn HIV/AIDS miễn phí tại: + Phòng tư vấn sức khỏe cộng đồng - Bệnh viện Lao: ĐT (056) 3 748 922; + Phòng khám số 3 (936- 938 Trần Hưng Đạo, Qui Nhơn: ĐT (056): 3 792 476.
* Phòng tư vấn sức khỏe miển phí tại Trung tâm Y tế Quận 1 TP.HCM với trên 20 bác sĩ thuộc các chuyên khoa tham gia tham vấn sức khỏe trực tiếp hoặc qua điện thoại số (08) 3 8206544.
* Chương trình VTV1 "Sức khoẻ là vàng", phát sóng vào 18h ngày Chủ nhật và phát lại vào 15h Thứ 4 tuần kế tiếp: Số điện thoại nóng của chương trình là 1900561225.
* Chương trình VTV2 “Sức khoẻ cho mọi người”, phát sóng vào 17h30 ngày Thứ 3 hàng tuần và phát lại vào 12h trưa hôm sau.
* Trung tâm tư vấn ung thư Can Hope (Singapore) tại Hà Nội: 04. 3 7472729 / 04. 3 7472730
* Khám và tư vấn miễn phí các bệnh lý thoái hóa và thoát vị đĩa đệm cột sống là chương trình do BV Nguyễn Tri Phương (468 Nguyễn Trãi, Q.5, TP.HCM) thực hiện vào lúc 13g30 thứ sáu hằng tuần.
Bệnh nhân có nhu cầu đăng ký qua số ĐT: 39234332 (xin số 895).


Khác:

* Bệnh nhân nam giới có nhu cầu khám và tư vấn các bệnh lý Nam khoa, vui lòng đăng ký tại BVĐH Y Dược TP.HCM, 215 Hồng Bàng, P11, Q5.:
1. Phòng khám Nam khoa. Điện thoại: (08) 3 8554269 (số 265) 2. Bộ phận chăm sóc khách hàng. Điện thoại: (08) 3 4051010- 3 4051212

*Ttư vấn “Bệnh loét dạ dày-tá tràng” liên hệ Phòng khám tiêu hóa - bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM, xin vui lòng đăng ký qua số điện thoại: 08. 3 4051010, 3 4051212, bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM, 215 Hồng Bàng, P.11, Q.5, bộ phận Chăm sóc khách hàng.

* Câu lạc bộ phòng chống Hen Hà nội, Hội Hen DU & MDLS Việt nam 04.3 9438933

* Các địa chỉ khác tại: http://shelove.biz/thong-tin-tu-van

* Tham khảo chữa rắn cắn: Địa chỉ liên hệ của ông Tần: Lê Văn Tần - xóm 6 xã Thanh Long, huyện Thanh Chương, Nghệ An. Điện thoại: 0972.901.089.

Người theo dõi