Google
Hiển thị các bài đăng có nhãn D. Thông tin cho bệnh nhân. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn D. Thông tin cho bệnh nhân. Hiển thị tất cả bài đăng

03/01/2013

Mất tay, tàn phế vì chữa khớp không đúng

Thời tiết chuyển mùa, độ ẩm cao là lúc bệnh nhân khớp bị “trời hành”. Uống thuốc không đỡ, chuyển sang tiêm, rồi bôi, đắp các loại thuốc lá... Đó là cách chữa sai lầm của rất nhiều người bị bệnh khớp.
Suýt mất tay vì tiêm thuốc vào tay chữa khớp
Khoa Chấn thương chỉnh hình (Bệnh viện Việt - Đức, Hà Nội) vừa cứu một bệnh nhân suýt mất bàn tay do tiêm thuốc vào tay để chữa khớp. Bệnh nhân là bà Lò Thị B, 61 tuổi (ở tỉnh Lai Châu) nhập viện trong tình trạng bàn tay phải sưng phù, tím đen, các ngón tay mất cảm giác, không cử động được.
Theo lời kể của bệnh nhân, một tháng trước khi nhập viện, bà B có biểu hiện bị đau hai khớp cổ tay. Bà B được 1 thầy thuốc về hưu ở địa phương tiêm hai loại thuốc là hydrocortison và lidocain vào tay. Sau khi tiêm, cánh tay bà B. đau dữ dội và tiếp tục được bác sĩ tiêm thêm 4 mũi giảm đau.
Tình trạng sức khoẻ ngày càng xấu đi, cánh tay đau đớn đến mức không thể chịu đựng nổi, bệnh nhân đã phải xuống Bệnh viện Việt - Đức điều trị. Sau một tuần điều trị, tay bệnh nhân đã bớt sưng nề, các mảng da tím đen thu hẹp, có dấu hiệu sống lại, nhưng vẫn có nguy cơ phải cắt bỏ một số đốt ngón tay.
Chị Thanh (ở quận Đống Đa, Hà Nội) bị sưng đau các khớp ngón tay đã đến một phòng khám tư ở Hà Nội khám và được bác sĩ tiêm thuốc đặc trị khớp vào chỗ khớp đang bị sưng. Tiêm 1-2 mũi thuốc đầu, chị Thanh thấy các khớp đau hơn, không co duỗi được. Thông báo cho bác sĩ thì bác sĩ bảo phải tiêm 1 tuần mới đỡ. Nghe lời bác sĩ, chị Thanh cố tiêm đến mũi thứ 5 thì không thể chịu nổi, vội đến khoa Cơ xương khớp – BV Bạch Mai khám. Tại đây các bác sĩ thăm khám, siêu âm khớp... đã phát hiện chị Thanh bị viêm gân chứ không phải bị khớp và cho bệnh nhân một đơn thuốc về uống. Chỉ uống thuốc sau 2 ngày các ngón tay của chị Thanh đã giảm đau hẳn, co duỗi bình thường.
Sẽ tàn phế, nếu không điều trị đúng
Các bác sĩ của Khoa Cơ xương khớp – BV Bạch Mai khuyến cáo: Nếu không điều trị đúng cách bệnh viêm khớp, rất có thể dẫn đến các hậu quả như bị cứng các khớp, ngón tay co quắp lại, không cầm nắm được, tay không thể giơ lên cao, ngón chân bị trẹo ra ngoài, rất đau đớn... Tình trạng này nếu kéo dài sẽ dẫn đến tàn phế.
Các bác sĩ đã chỉ ra một số sai lầm của người bệnh trong chữa bệnh viêm khớp như: Bệnh nhân tự ý mua thuốc tây hoặc thuốc bắc trộn dexa về uống. Do đa số thuốc điều trị đều có corticoid nên nếu dùng lâu ngày, bệnh nhân sẽ bị phù hoặc loãng xương. Rất nhiều bệnh nhân đi khám một lần, uống thuốc thấy bớt, cứ thế lấy đơn cũ uống tiếp mà không tái khám theo hẹn của bác sĩ. Điều này rất nguy hiểm, vì bất cứ thuốc nào dùng lâu dài cũng có phản ứng phụ không tốt cho cơ thể. Phổ biến hơn là nhiều người khi thấy đau xương khớp thường đi giác hơi, cắt lể, lấy lá đắp, bó lên chỗ đau, có thể dẫn đến lở loét...
Bệnh khớp (thấp khớp cấp, viêm khớp dạng thấp, thoái khớp, viêm khớp mãn tính, viêm cột sống dính khớp, đau dây thần kinh tọa, gut...) là bệnh mang tính xã hội, chiếm tỉ lệ không nhỏ trong các bệnh nội khoa. Phần lớn các bệnh khớp thường mãn tính, việc điều trị lâu dài có khi suốt đời. Vì thế khi có các dấu hiệu của bệnh như: Cứng khớp vào các buổi sáng thức dậy, rồi sưng viêm và đau các khớp vai, khuỷu, cổ tay, bàn tay, đốt ngón tay, đầu gối, bàn chân, đốt ngón chân... bệnh nhân hãy đến ngay các bệnh viện, trung tâm chuyên khoa về nội khớp để khám và điều trị sớm. Việc chữa trị cần kiên trì và phối hợp với thầy thuốc để có phương pháp điều trị kết hợp nội khoa, ngoại khoa, vật lý trị liệu...

27/06/2012

10 CÁCH NGĂN NGỪA THOÁI HÓA KHỚP

Tác giả : BS. HUỲNH BÁ LĨNH (BV. Chấn thương Chỉnh hình - TPHCM)

Thoái hóa khớp là nguyên nhân hàng đầu gây ra chứng đau khớp ở người trưởng thành. Từ chuyên môn gọi là viêm xương khớp (osteoarthritis). Trước đây người ta xem nó là căn bệnh của người cao tuổi. Tuy nhiên nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy có rất nhiều người dưới 40 tuổi cũng bị thoái hóa khớp. Thường gặp nhất là do chấn thương và khớp làm việc quá tải. Ngoài ra còn một nguyên nhân trước đây ít gặp nhưng nay khá phổ biến là bệnh béo phì. Hiếm gặp hơn là các nguyên nhân về di truyền (gen) hay khiếm khuyết bẩm sinh về xương khớp.

Ðiểm lại các nguyên nhân thường gặp, chúng ta thấy rõ thoái hóa khớp là bệnh có thể ngăn ngừa được. Sau đây là 10 biện pháp được các nhà chuyên môn đề nghị:

1. Duy trì trọng lượng cơ thể ở mức độ thích hợp

Khi bạn càng béo, sức nặng đè lên khớp càng lớn, nhất là vùng lưng, khớp háng, khớp gối và bàn chân.

2. Siêng vận động

Luyện tập thể dục, thể thao vừa sức sẽ giúp cơ bắp khỏe mạnh, máu huyết lưu thông dễ dàng. Ðó là yếu tố giúp tăng cường dinh dưỡng cho lớp sụn khớp. Cơ bắp khỏe mạnh sẽ giúp giảm lực đè ép lên khớp xương trong vận động.

3. Giữ tư thế cơ thể luôn thẳng

Tư thế tốt sẽ giúp bảo vệ các khớp tránh sự đè ép không cân đối. Ở tư thế thẳng sinh lý, diện tích tiếp xúc giữa hai mặt khớp sẽ đạt mức tối đa, vì thế lực đè ép sẽ tối thiểu. Hơn nữa, khi đó sẽ có sự cân bằng lực giữa các dây chằng và cơ bắp quanh khớp, giúp giảm bớt nhiều nhất lực đè ép lên hai mặt sụn khớp.

4. Sử dụng các khớp lớn trong mang vác nặng

Khi nâng hay xách đồ nặng, bạn cần chú ý sử dụng lực cơ của các khớp lớn như ở tay là khớp vai, khớp khuỷu; ở chân là khớp háng, khớp gối. Khéo léo sử dụng nguyên tắc đòn bẩy ở những khớp lớn để tránh làm tổn thương các khớp nhỏ như cổ tay, cổ chân, bàn tay, bàn chân.

5. Giữ nhịp sống thoải mái

Bạn nên sắp xếp công việc hợp lý, hài hòa giữa nghỉ ngơi và lao động. Nên nhớ rằng các cơ quan trong cơ thể đều cần có sự nghỉ ngơi để tái tạo lại năng lượng. Không nên lặp đi lặp lại một công việc hay tư thế làm việc kéo dài quá sức chịu đựng của cơ thể. Lực tác động không lớn nhưng nếu lặp đi lặp lại trong thời gian quá dài sẽ làm tổn thương khớp.

6. Phải biết "lắng nghe" cơ thể

Cơ thể chúng ta có cơ chế báo động rất tuyệt vời. Khi có vấn đề nó sẽ báo động ngay cho bạn. Trong đó đau là dấu hiệu báo động chủ yếu. Phải ngưng ngay lập tức các vận động nếu chúng gây đau.

7. Thay đổi tư thế thường xuyên

Nên thường xuyên thay đổi các tư thế sinh hoạt. Tránh nằm lâu, ngồi lâu, đứng lâu một chỗ vì sẽ làm ứ trệ tuần hoàn và gây cứng khớp. Có thể đây là yếu tố chính yếu gây ra thoái hóa khớp do nghề nghiệp, nhất là ở những người lao động trí óc.

8. Sự luyện tập "như một chiến binh" sẽ làm hại bạn

Khi khớp của bạn có vấn đề, lời khuyên nên vận động của bác sĩ có thể được bạn hăng hái thực hiện một cách quá mức. Nguyên nhân thường là nỗi lo sợ thầm kín báo hiệu tuổi già của những người thành đạt trong cuộc sống, là sự âu lo nếu bạn là trụ cột của gia đình. Những lý do này khiến bạn vội vã lao vào tập luyện như những người lính cứu hỏa dập tắt đám cháy. Tuy nhiên điều này không thể áp dụng cho tổn thương khớp. Do sụn khớp phải trải qua một thời gian dài tác động mới bị hư hỏng (thoái hóa), vì vậy khi bạn cảm thấy đau nghĩa là nó đã hư khá nặng. Sự nghỉ ngơi sẽ làm ngừng gia tăng mức độ tổn thương. Còn sự vận động sẽ giúp nó phục hồi nhưng cần phải tăng dần cường độ. Nếu bạn quá gắng sức hay nóng nảy trong luyện tập để đốt giai đoạn, thì vô tình sẽ làm chết lớp sụn mới còn non yếu do các lực tác động quá mức của chính mình. Nên bắt đầu bằng những động tác nhẹ nhàng và chậm rãi, sau đó mới tăng dần lên tùy vào sự phản ứng của cơ thể.

9. Bảo vệ cơ thể trước những bất trắc trong sinh hoạt

Khi ra khỏi nhà, bạn nên cẩn thận chuẩn bị những dụng cụ bảo vệ cổ tay và khớp gối, nhằm đề phòng những tình huống bất ngờ có thể làm bạn bị chấn thương.

10. Ðừng ngại ngần khi có yêu cầu trợ giúp

Bạn không nên cố gắng làm một việc gì đó quá sức của mình. Nếu cảm thấy khó khăn, nên nhờ người khác trợ giúp. Mang vác hay xách một vật nặng có thể làm bạn đau nhức kéo dài nhiều ngày. Tình trạng đau nhức này thể hiện sự tổn thương của cơ thể. Từ những lỗ nhỏ có thể phát triển thành những sang thương lớn hơn trên mặt sụn khớp. (Theo Ykhoa.net)

11/05/2012

Liệu pháp mới bảo tồn bàn chân cho người bị tiểu đường

Loét bàn chân là biến chứng đáng sợ đối với nhiều bệnh nhân đái tháo đường vì nguy cơ cao phải cắt chi. Tuy nhiên, các nhà khoa học đã có phát minh mới giúp chữa khỏi bệnh mà không cần phẫu thuật.

Đây là nội dung hội thảo khoa học do hội Nội tiết và đái tháo đường Việt Nam tổ chức tại Huế chiều 10/5.
Loét bàn chân là một biến chứng nguy hiểm ở bệnh nhân đái tháo đường nặng, xảy ra ở mu bàn chân, ngón cái với tỉ lệ tử vong vì biến chứng này gần bằng tỉ lệ tử vong do ung thư hay căn bệnh thế kỷ AIDS. Các vết loét ban đầu chỉ là vết xước nhỏ hoặc phồng da do bệnh nhân đi giày dép quá chật nhưng do không phát hiện kịp thời cũng như thiếu kiến thức chăm sóc khiến các vết loét lâu lành, lan rộng dẫn đến hoại tử. Việc đoạn chi là giải pháp cuối cùng. Song số người sống được sau đoạn chi 5 năm cũng chỉ chiếm khoảng 40%.

Mới đây, một trung tâm công nghệ sinh học Cu Ba đã nghiên cứu và phát triển yếu tố phát triển biểu bì tái tổ hợp (Heberprot-P), được sử dụng tiêm trong và ngoại biên vết loét.
Theo giáo sư Arístides García Herrera, Trưởng khoa chăm sóc bàn chân, Đại học Mantanzas Cuba, để giúp làm lành loét bàn chân đái tháo đường, không chỉ cần làm sạch và diệt khuẩn mà còn phải kích thích phát triển mô bị thiếu trong điều kiện bình thường.
Phương pháp mới sẽ kích thích sự tạo mô hạt và gia tăng quá trình tái biểu mô hóa trong các vết loét và sang thương thiếu máu cục bộ, mất trương lực, khó lành trong đái tháo đường. Nhờ thế rút ngắn thời gian lành vết thương, làm giảm số lần và mức độ phẫu thuật cắt lọc và tái phát tại chỗ, góp phần bảo tồn chi.
Việt Nam là quốc gia đầu tiên trong khu vực Đông Nam Á đưa phương pháp này vào điều trị. Bệnh viện Chợ Rẫy TP HCM và Bệnh viện Nội tiết Trung Ương thử nghiệm trên 33 bệnh nhân trong độ tuổi từ 24 đến 76, bị loét bàn chân do đái tháo đường nặng độ 3 và 4 (khó lành).
Tiến sĩ Nguyễn Văn Tiến, Bệnh viện Nội tiết Trung ương, cho biết trong vòng 8 tuần, 97% bệnh nhân loét nặng đáp ứng tốt, vết loét hình thành mô hạt trên 75%. Bệnh nhân có một số phản ứng phụ như run, đau, sốt, rung mình nhưng các phản ứng này có tiên lượng và kiểm soát được.
Theo kinh nghiệm lâm sàng quốc tế, các vết loét sau điều trị Heberprot-P hình thành mô hạt từ 75% trở lên có thể liền thương mà không cần tiếp tục điều trị.
Kết quả đã được Bộ Y Tế nghiệm thu và công nhận, được cấp phép lưu hành ngày 22/3/2012.
Giáo sư William Marston, Trưởng khoa phẫu thuật mạch máu, Đại học Y khoa Bắc Carolina đánh giá: “Với yếu tố phát triển biểu bì tái tổ hợp người, các bác sĩ có thể không cần can thiệp phẫu thuật hay dùng những biện pháp can thiệp khác để cải thiện hiệu quả điều trị mà vẫn chotỉ lệ thành công cao”.
Nguyễn Đông (Theo VNExpress.net)

24/02/2012

Bệnh lý cột sống và xương khớp

Cột sống được gắn kết xen kẽ bởi các đốt sống và đĩa đệm mà trong đó đĩa đệm đóng vai trò như bộ phận giảm sốc, với những biểu hiện thường gặp và các yếu tố rủi ro dẫn đến nguy cơ mắc bệnh cột sống.

Khi lão hóa, khả năng đàn hồi của đĩa đệm giữa các đốt sống giảm dần trở nên dễ vỡ và một số bộ phận của đốt sống phát triển hơn mức bình thường. Vì vậy, đĩa đệm mất khả năng giảm sốc, gây áp lực và chèn ép lên tủy và nhánh rễ thần kinh tủy. Tổn thương này có thể dẫn đến biểu hiện mất cảm giác, yếu ớt và mất cân bằng. Tuỳ theo khu vực bị chèn ép mà biểu hiện sẽ khác nhau. Tuỳ thuộc vào mức độ chèn ép bộ phận bị chèn ép có thể mất một phần hoặc toàn bộ chức năng.
Một số biểu hiện thường gặp của tình trạng trên như: Cảm giác yếu và mất sức ở các chi; mất cảm giác; thay đổi về chức năng phản xạ; mất khả năng kiểm soát bàng quang (són tiểu), đại tiện (són phân); rối loan cương dương; liệt; đau lưng; đau cổ.
Các yếu tố rủi ro dẫn đến nguy cơ mắc bệnh cột sống: Thường khuân vác nặng, cuối gập người; lão hoá dẫn đến thoái hóa; chấn thương cột sống (thoát vị đĩa đệm); chiều cao; béo phì (tăng áp lực lên các đĩa đệm); hẹp ống sống; hút thuốc (khói thuốc làm giảm hoạt tính của đĩa đệm).
Theo thời gian, các khớp bị ảnh hưởng do sự biến đổi trong sụn và trong mô liên kết. Sụn bên trong khớp bắt đầu mỏng dần và các thành phần của sụn (proteoglycan) bắt đầu thay đổi, tác động đến sự dẻo dai và khiến chúng dễ bị tổn thương. Ở một số bệnh nhân, bề mặt của khớp không trượt lên nhau một cách dễ dàng theo biến đổi của quá trình lão hoá. Quá trình này có thể dẫn đến viêm xương khớp. Mặt khác, các khớp cũng cứng hơn vì mô liên kết trong các dây chằng, gân trở nên sơ cứng và giảm độ đàn hồi. Những biến đổi này làm cho các chuyển động của khớp bị hạn chế.
Đối với một số khớp (như khớp gối), dây chằng (bao quanh và hỗ trợ khớp) thường bị giãn khiến khớp không ổn định. Những vận động đòi hỏi sự di chuyển và va chạm các khớp (như đứng, leo cầu thang, đi bộ...) có thể gây đau nhói. Diễn biến lâu dài sẽ làm hao mòn và thâm chí phá huỷ cấu trúc khớp do sự cọ sát và viêm xương khớp. Trường hợp này cần phải thay khớp, phổ biến là khớp gối và khớp háng.
Viêm xương khớp thường ảnh hưởng đến cột sống mà đau lưng là triệu chứng phổ biến nhất. Thông thường, các đĩa đệm hoặc các khớp bị tổn thương trong cột sống gây đau nhẹ và cứng. Tuy nhiên, viêm xương khớp ở cổ và thắt lưng có thể gây tê, đau và suy nhược ở cánh tay, hoặc chân nếu xương phát triển quá mức chèn lên các dây thần kinh. Xương phát triển quá mức trong ống sống ở thắt lưng (chứng hẹp tủy sống vùng thắt lưng) sẽ gây chèn ép lên các dây thần kinh trước khi các dây thần kinh ra khỏi ống tủy sống truyền xuống chân. Sự chèn ép này có thể gây ra đau chân sau khi đi bộ.
(Nguồn: Công ty TNHH MTV Dịch Vụ Giải Pháp Chăm Sóc Việt Sing) (Vnexpress)

08/01/2012

Có thuốc ngừa bệnh gút không?

Tôi chưa bị bệnh gút nhưng thấy nhiều ông bạn bị bệnh này, nghe sợ quá. Xin hỏi hiện có thuốc ngừa bệnh gút chưa?
BS Nguyễn Hồng Thu, giám đốc viện Gút TP.HCM:
Ngón chân cái bị sưng, nóng, đỏ.
Hiện không có thuốc hoặc vắcxin ngừa bệnh gút. Điều quan trọng nhất chính là thói quen ăn uống, sinh hoạt. Ăn quá nhiều đạm, uống nhiều bia rượu, có nếp sống không điều độ (thức khuya, dậy sớm, để quá đói hoặc quá no), hay căng thẳng... đều dễ dẫn đến những cơn gút cấp. Theo tây y, cách chữa trị phổ biến là dùng Colchicin (thuốc đặc hiệu điều trị gút) và các loại kháng viêm, giảm đau không steroid (NSAID) kết hợp với các thuốc giảm tổng hợp axít uric như Allopurinol hoặc tăng đào thải axít uric. Tuy nhiên, mỗi người có thể phù hợp với một loại thuốc khác nhau, bạn không nên tự uống thuốc mà phải có sự hướng dẫn cụ thể của bác sĩ.

03/08/2011

Nhiều trẻ vẹo cột sống mà bố mẹ không biết

Nhìn từ phía sau, người ta có thể tưởng Như là một bà cụ nhỏ nhắn, chứ không nghĩ đó là một cô bé 14 tuổi. Bị cong cột sống tới 72 độ, em lúc nào cũng mặc cảm bởi dáng còng khắc khổ của mình.
Người nhà cô bé ở Như Xuân, Thanh Hóa này cho biết, khi Như còn nhỏ bố mẹ đã sờ thấy cột sống của em hơi cong, nhưng vì không có điều kiện, nên mãi tới khi thấy con gù lưng, không thể đứng thẳng, họ mới đưa em đi khám. Bố mẹ cho biết, Như cũng thường xuyên bị đau ngực, khó thở do phổi bên trái bị xẹp. Tại Bệnh viện Việt Đức, các bác sĩ kết luận Như bị cong vẹo cột sống nặng và phải phẫu thuật nắn chỉnh
.
Tiến sĩ Nguyễn Văn Thạch, trưởng khoa Phẫu thuật cốt sống, Phó giám đốc Bệnh viện Việt Đức (Tràng Thi, Hà Nội) cho biết, Như chỉ là một trong số rất nhiều trẻ bị cong vẹo cột sống được đưa đến khám tại khoa, khi bệnh đã rất nặng.
Theo bác sĩ, có khoảng 2-3% dân số mắc cong vẹo cột sống, có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng nhiều nhất là ở nhóm 13-18 tuổi, nữ mắc nhiều hơn nam. Có tới 2/3 số người bị cong vẹo cột sống là không rõ nguyên nhân, còn lại có thể do dị tật bẩm sinh, u tủy sống hoặc cột sống...
Tiến sĩ Thạch cho biết, tại khoa phẫu thuật cột sống, mỗi dịp hè về, có tới gần trăm bệnh nhi được đưa tới khám cong vẹo cột sống, trong đó đa phần là đã ở mức độ nặng, khi cong vẹo đã thấy rõ.
Bác sĩ khuyến cáo, bệnh này nếu được điều trị sớm sẽ đạt kết quả tốt hơn. Vì vậy, bố mẹ cần quan tâm và phát hiện ngay những dấu hiệu bất thường để đưa con đi khám, điều trị kịp thời: Trẻ bị cong vẹo cột sống nhẹ nhìn bên ngoài có thể khó phát hiện nhưng khi sờ vào gai sau cột sống sẽ thấy cột sống của trẻ không thẳng hàng. Trẻ bị bệnh nặng hơn có thể dễ dàng nhận ra khi nhìn hai bên bả vai sẽ thấy một bên gồ cao, một bên thấp, đặc biệt ở động tác cúi xuống. Những trường hợp nặng sẽ thấy hai vai lệch nhau, ngực một bên nhô, một bên lép. Bệnh sẽ được chẩn đoán chính xác bằng chụp Xquang.
Theo ông, cột sống bị cong vẹo nếu không được phát hiện và xử trí sớm có khả năng gây ra những biến dạng ở khung chậu, lồng ngực nên có thể ảnh hưởng đến chức năng của các cơ quan bên trong như phổi, tim... dẫn đến bệnh mãn tính, thậm chí ảnh hưởng đến tuổi thọ.
Tùy theo mức độ cong vẹo nặng hay nhẹ mà có các biện pháp điều trị khác nhau. Nếu góc vẹo nhỏ, dưới 40 độ, bệnh nhân có thể chỉ cần theo dõi định kỳ, tập vật lý trị liệu hoặc được điều trị bằng áo chỉnh hình cột sống. Nhưng khi góc vẹo lớn hơn 40 độ thì bệnh nhân cần được phẫu thuật.
Từ 8h đến 16h chủ nhật, ngày 7/8, khoa phẫu thuật cột sống, Viện chấn thương chỉnh hình, Bệnh viện Việt Đức sẽ tổ chức khám tư vẫn miễn phí cho các trường hợp bệnh nhân vẹo cột sống tại Hội trường lớn của Bệnh viện. Đối với những trường hợp vẹo cột sống cần can thiệp y tế, Bệnh viện sẽ hỗ trợ tiền phí áo chỉnh hình cột sống. Đây cũng là cơ hội cho những bệnh nhân và người nhà giao lưu với các trường hợp được phẫu thuật chỉnh vẹo cột sống tại khoa từ trước đến nay. Liên hệ: 04.39380053 (khoa phẫu thuật cột sống)
Minh Thùy Theo vnexpress.net

05/04/2011

Thiếu nữ cũng có thể trở thành 'Lưu gù'

Suốt mấy năm, Thương (18 tuổi, Hà Nội) luôn sống trong mặc cảm, tự thu mình vào "vỏ ốc" vì luôn bị bạn bè trêu là có dáng đi hình chữ S. Lý do là vì cột sống cô bị lệch hẳn sang một bên. Trong khi các bạn cùng trang lứa chọn những chiếc áo, váy bó sát lưng để tôn dáng thì Thương chỉ dám mặc áo sơ mi rộng thùng thình. Vào những dịp đặc biệt phải mặc áo dài bó sát người, cô cảm thấy giống như bị tra tấn vì bạn bè sẽ thấy rõ lưng cô bị vẹo như thế nào. "Mùa đông, mặc nhiều quần áo còn đỡ chứ mùa hè là mình bị ám ảnh nhất. Chỉ cần thấy ai chỉ trỏ, rì rầm nói chuyện sau lưng là đã có cảm giác họ đang nói về mình. Ai đời con gái mà cột sống không khác gì con rắn uốn lượn", Thương buồn bã nói. Phát hiện bệnh từ mấy năm trước, tuy nhiên do không được theo dõi, tập luyện điều chỉnh thường xuyên nên cột sống của cô càng bị vẹo nặng hơn. Người cô bị lệch hẳn về một bên. Tiến sĩ Phan Trọng Hậu, Chủ nhiệm khoa Phẫu thuật cột sống, Bệnh viện Trung ương quân đội 108 cho biết, kết quả chụp Xquang cho thấy, Thương bị biến dạng vẹo cột sống ngực thắt lưng 52 độ, kèm theo ưỡn quá mức cột sống thắt lưng với góc ưỡn 80 độ. Các bác sĩ đã tiến hành đặt vít, nắn chỉnh cột sống. Sau phẫu thuật, góc vẹo còn 20 độ, góc ưỡn cột sống thắt lưng cũng chỉ còn 50 độ. Theo các bác sĩ, những trường hợp bị vẹo cột sống như trên không phải là hiếm gặp, bệnh lý này chiếm khoảng 2-3% dân số. Bệnh phát triển nhanh nhất ở tuổi dậy thì, nữ mắc nhiều hơn nam với tỷ lệ chênh lệch 9 nữ trên một nam. Nhiều người cho rằng nguyên nhân gây bệnh là do đứng hoặc ngồi sai tư thế, xách nặng một bên, thói quen nằm ngủ co quắp…, tuy nhiên điều này không hoàn toàn đúng. “Có rất nhiều nguyên khác nhau khiến cột sống bị vẹo, có thể do bẩm sinh, mắc bệnh lý về tủy sống, thần kinh cơ. Tuy nhiên, phần lớn đều là vẹo cột sống không rõ nguyên nhân”, tiến sĩ Hậu cho biết. Cũng theo ông, những bệnh nhân bị vẹo cột sống, nhất là nữ thường cảm thấy mặc cảm, tự ti, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống. Ngoài ra, nó còn làm biến dạng cột sống, gây chèn ép tim, phổi ảnh hưởng đến chức năng hô hấp. Bệnh nặng hay nhẹ phụ thuộc vào thời điểm khởi phát. Bệnh khởi phát ở trẻ càng nhỏ thì càng nặng, thậm chí có trường hợp gây suy giảm chức năng tim, phổi khiến bệnh nhân tử vong trước 20 tuổi. Trung bình mỗi năm, góc vẹo sẽ tăng lên 1,7 độ và đạt đỉnh khi trẻ bước vào giai đoạn dậy thì. Những trường hợp góc vẹo hơn 40 độ thường được chỉ định phẫu thuật, sau đó sẽ tiến hành phục hồi chức năng để giúp cột sống mềm dẻo hơn. Những bệnh nhân có góc vẹo dưới 40 độ thì chưa cần nắn chỉnh nhưng phải được bác sĩ theo dõi định kỳ và điều trị bảo tồn bằng cách sử dụng áo nẹp. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam chưa sản xuất được các loại áo nẹp này mà chủ yếu nhập từ nước ngoài, chi phí lớn lên đến hàng chục triệu, không phải ai cũng mua được. Tiến sĩ Hậu khuyến cáo, điều quan trọng trong điều trị cong vẹo cột sống là cần phát hiện sớm để có xử lý kịp thời. Góc vẹo càng lớn thì khả năng phục hồi càng thấp. Vì thế, cha mẹ có thể phát hiện sớm bệnh của con bằng cách quan sát hai vai và cột sống của trẻ khi cúi xuống. Nếu thấy hai vai hoặc xương bả vai không cân bằng nhau, cột sống bị cong thì cần đưa con đi khám để được can thiệp kịp thời. Nếu trẻ bị phát hiện cong vẹo cột sống thì cần được thăm khám định kỳ để theo dõi độ phát triển của bệnh. Phương Trang (Theo VNexpres)

01/04/2011

Giảm đau khớp mà không dùng thuốc

Bệnh có tỷ lệ tàn tật cao Theo các bác sĩ, viêm khớp là một trong những dạng bệnh mạn tính có tỷ lệ tàn phế cao nhất và thực tế có rất nhiều người đã trở nên tàn tật vì căn bệnh này, dẫn đến giảm và mất khả năng lao động sinh hoạt, lao động hàng ngày. Theo ThS Võ Tường Kha, Trưởng khoa Đông y, Viện Khoa học TDTT, thời tiết từ nóng sang lạnh là lúc bệnh phát triển mạnh. Đau là triệu chứng đầu tiên của bệnh này. Lúc khởi đầu chỉ có một vài khớp bị đau, rồi từ từ nhiều khớp và có thể toàn thân bị đau nhức. Cách giảm đau và phòng ngừa Lấy lá ngải cứu trắng rửa sạch, cho lẫn muối vào rồi nướng nóng lên, sau đó đắp vào khớp. Khi khớp bị sưng, đắp ngải cứu muối ấm sẽ làm cơn đau giảm đi, khớp bớt sưng hơn. Hoặc mỗi ngày, tốt nhất ngâm chân một lần vào thời gian thuận lợi, ngâm từ 15 - 30 phút. Nước muối ấm và gừng cũng có tác dụng làm dịu cơn đau, phòng bệnh đau khớp cổ chân và còn giúp phòng ngừa nhiều bệnh cho toàn thân. Mưa lạnh, ẩm thấp đau tăng, thường hay tái phát mỗi khi thay đổi thời tiết. Bệnh âm ỉ kéo dài, thường kèm theo các rối loạn khác như rối loạn tiêu hóa, mất ngủ, ăn uống kém… Nguyên nhân của bệnh là do ổ khớp có rất ít mạch máu, chủ yếu hoạt động là do thẩm thấu. Vì vậy, những ổ khớp nào có nhiều mạch máu lưu thông thì ít bị đau và ngược lại. Mùa này vừa ẩm thấp, lại lạnh gây co mạch, làm máu lưu thông kém làm khớp bị loạn dưỡng và gây đau, tê cứng… Ngoài ra, nguyên nhân gây đau khớp là do sức đề kháng và khả năng tự bảo vệ của cơ thể không đầy đủ, các yếu tố gây bệnh là Phong – Hàn - Thấp cùng phối hợp tác động xâm phạm đến kinh lạc – cơ – khớp, làm cho sự vận hành của khí huyết bị tắc nghẽn không thông gây ra sưng đau, hoặc không sưng mà chỉ đau tê mỏi nặng ở một khu vực khớp xương hoặc toàn thân. Đặc biệt, ở người già, các chức năng hoạt động cơ thể bị suy yếu, làm cho khí huyết cũng giảm sút không nuôi dưỡng được cân mạch gây nên tình trạng thoái hóa khớp xương và gây đau. Càng xoa bóp càng hỏng khớp Bác sĩ Kha cho biết, nhiều người đã rất sai lầm khi thấy đau là xoa bóp, điều đó sẽ rất có hại, làm cho khớp các đau thêm. Xoa bóp có thể có ích trong một số trường hợp, với các dụng làm giảm cơn co cứng. Tuy nhiên, không bao giờ được xoa bóp trực tiếp lên vùng khớp viêm cấp (sưng, nóng, đỏ, đau…). Khi đau có thể dùng châm cứu để giảm đau. Bởi theo y học cổ truyền, các biểu hiện bệnh lý tại khớp xương như sưng, đau, mỏi, nặng, phù, biến dạng khớp… được gọi là chứng Tý. Tý có nghĩa là sự bế tắc, không thông, tắc nghẽn khí huyết sinh ra chứng sưng, đau nhức… Do đó, khi dùng kim châm vào những huyệt ở vùng khớp bệnh và xung quanh, sẽ làm kinh mạch được khơi thông, khi huyết được điều hoà, sẽ có kết quả giảm đau. Ngoài ra, những người bệnh bị đau khớp, viêm khớp dạng thấp, thấp tim cần lưu ý không nên ra ngoài khi trời lạnh. Độ ẩm không khí cao là nguy cơ gây đau, sưng. Hãy luôn giữ ấm bàn chân để phòng bệnh một cách hiệu quả nhất Khi bị đau, cách tốt nhất để giảm đau là làm nóng (khi người bệnh không có bệnh lý gì đặc biệt): tắm nước nóng toàn thân (áp dụng cho các trường hợp viêm nhiều khớp), tắm nóng từng phần (những người không tắm được toàn thân hay đau khớp cục bộ, tay chân…), đắp nóng hoặc chườm nóng, dùng đèn hồng ngoại… Đối với tắm nóng, nhiệt độ nước từ 30 – 40oC, thời gian tắm từ 15 – 20 phút. Nước nóng có tác dụng giảm đau, tăng tuần hoàn ngoại vi, tạo thư giãn cơ, giảm cơn co cứng cơ và giúp người bệnh thực hiện một số cử động chủ động của khớp trong nước. Đắp nước nóng bằng túi chườm nóng cho đau ở một hoăặ 2 khớp. Thời gian đắp tối đa 20 phút. Đèn hồng ngoại đặt cách da 60 cm, thời gian chiếu tối đa 30 phút… ThS Đỗ Sĩ Hùng, Trưởng khoa Vật lý trị liệu Trung tâm Cơ Xương khớp, bệnh viện E Hà Nội nhấn mạnh, nghỉ ngơi có tác dụng giảm đau ở người bệnh viêm khớp mạn tính và trong nhiều trường hợp có thể làm lui cơn bệnh. Đây cũng là lý do quan điểm điều trị trước đây thường xuyên người bệnh nghỉ ngơi tại giường. Nếu khớp đau do nguyên nhân cơ học như đau dây chằng hoặc lớp sụn thì nghỉ ngơi hoặc bất động khớp đó – là cách điều trị tốt nhất. Tuy nhiên, việc nằm lâu một chỗ cũng tạo ra các nguy cơ ảnh hưởng tới chức năng vận động và gây ra những thương tật thứ cấp. Vì vậy, người bệnh vẫn có thể di chuyển nhẹ nhàng để tránh co rút khớp. Tuy nhiên, các chuyên gia đều khuyên, nếu sau vài ngày áp dụng các biện pháp này, không thấy thuyên giảm hoặc giảm rất ít, người bệnh nên đến cơ sở y tế để khám chữa bệnh, không nên tự ý dùng thuốc để tránh những hậu quả đáng tiếc. Khánh An – (Theo Tienphong)

11/01/2011

Thay khớp nhân tạo miễn phí

Từ ngày 9 đến 16/9/2011, Tổ chức Operation Walk sẽ phối hợp với Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 chọn 60 bệnh nhân mổ thay khớp gối và khớp háng. Tiền một khớp nhân tạo khoảng 45-80 triệu đồng được miễn phí.
Bác sĩ Nguyễn Quốc Dũng, Phó trưởng khoa Phẫu thuật Khớp Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 cho biết, Operation Walk là tổ chức nhân đạo của Mỹ, gồm các chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực phẫu thuật thay khớp nhân tạo. Đây là lần thứ 2 đoàn đến Việt Nam.
Đợt này các bác sĩ sẽ triển khai nhiều kỹ thuật mới như thay khớp gối bán phần, thay cả 2 khớp trong một lần mổ với những bệnh nhân có bệnh lý ở cả hai bên.
Theo bác sĩ Dũng, thay khớp là một kỹ thuật khó, phức tạp, đặc biệt đòi hỏi khớp thay phải phù hợp với từng lứa tuổi, từng bệnh lý của mỗi bệnh nhân... Vì thế, các chuyên gia Mỹ yêu cầu gửi hồ sơ bệnh án của các bệnh nhân được thay khớp để chuẩn bị khớp thay cho phù hợp.
Những bệnh nhân có biểu hiện đau, đi lại khó khăn hay đã được chẩn đoán có bệnh lý tại khớp háng và khớp gối, muốn được phẫu thuật miễn phí có thể đăng ký làm hồ sơ tại Khoa phẫu thuật khớp, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 (số 1 Trần Hưng Đạo, Hà Nội). Ngoài ra, có thể liên hệ với bác sĩ Dũng, số điện thoại 0983670368 hoặc bác sĩ Hải 0983670377 hoặc 069572532.
Hải Phong (Theo Vnexpress)

22/09/2010

Bị teo cơ sau tai nạn vì lười vận động

Sau gần 3 tuần cố gắng đi lại nhẹ nhàng vì bị rạn xương bàn chân và giãn dây chằng do ngã xe máy, chị Thúy, hơn 40 tuổi ở Hà Nội những tưởng sẽ đi lại được bình thường. Tuy nhiên, chị chỉ có thể đi tập tễnh vì chân đã bị teo cơ.
Cách đây không lâu chị Thúy bị ngã xe máy, rạn xương bàn chân và giãn dây chằng ở cổ chân trái. Lúc đó chị thấy dù sao vẫn còn may vì không bị gãy xương, chỉ là một tai nạn nhỏ nên không cần quá lo lắng. Chị cũng đi khám, bó chân, cố định bằng lá thuốc và băng chun.
Trong suốt hơn 2 tuần sau đó, lúc nào đi lại chị cũng rất khẽ khàng bằng cái chân lành, tránh va chạm với bên chân bị đau một phần vì sợ đau, một phần sợ xương bị rạn hơn nếu vận động mạnh. Thế nhưng đến ngày thứ 20, đến lúc bắt đầu có thể tập đi thì chị thấy rất khó khăn để đi lại bình thường, quan sát lại thấy chân đau nhỏ hơn so với chân lành.
Hốt hoảng đi khám, chị được biết mình bị teo cơ tạm thời. Đây là một điều bình thường vì sau một thời gian không vận động chân sẽ bị teo, chỉ cần tập đi lại thì tình trạng này sẽ cải thiện. Dù thế, đến nay đã hơn 4 tháng, chị vẫn đi kiểu chân thấp chân cao, chân bị đau vẫn nhỏ hơn chân còn lại.
"Bác sĩ nói tôi phải luyện tập phục hồi chức năng ít nhất 3 tháng nữa thì mới có thể đi lại được bình thường. Cứ nghĩ chỉ bị rạn xương thông thường thì vết thương sẽ chóng lành. Ai dè...", chị Thúy nói. Phó giáo sư - tiến sĩ Dương Xuân Đạm, nguyên trưởng khoa phục hồi chức năng, Bệnh viện Quân đội 108 cho biết, những chấn thương như trẹo chân, bong gân, gãy hoặc rạn xương… là những tai nạn thường gặp. Tuy nhiên, vì đây chỉ là những chấn thương nhẹ nên giống như chị Thúy, nhiều người tỏ ra chủ quan mà không biết rằng mình có thể bị teo cơ.
Sau một thời gian bị cố định, người bệnh hầu như không có sự vận động ở chỗ bị tổn thương cho nên dễ bị mất cảm giác và có biểu hiện teo cơ. Tuy nhiên cần lưu ý, cơ bị nhỏ đi không có nghĩa là sợi cơ bị hủy, mà là số lượng sợi cơ không thay đổi nhưng chất lượng sợi cơ giảm, Phó giáo sư Đạm cho biết.
Cũng theo ông, khi bị bó bột, người bệnh thường sợ đau nên không dám vận động hoặc không nghĩ đến việc hồi phục chức năng, khiến cho tay (chân) nhỏ đi. Vì thế, việc phục hồi chức năng sau chấn thương rất khó khăn và mất thời gian.
"Việc cố định, bất động chỗ bị thương càng lâu thì nguy cơ bị teo cơ càng lớn. Trong khi thực tế, dù xương bị gãy đang bó bột thì sau khoảng một tuần đã nên vận động nhẹ theo hướng dẫn của bác sĩ phục hồi chức năng", phó giáo sư Đạm nói.
Phó giáo sư Đạm cũng cho biết, chỉ sau 2 tuần không vận động, hiện tượng teo cơ đã bắt đầu diễn ra. Khi đã bị teo cơ thì người bệnh nên đi khám sớm. Nếu dây thần kinh cơ không bị ảnh hưởng thì người bệnh chỉ cần tập theo hướng dẫn của bác sĩ. Chẳng hạn với người bị teo cơ cẳng chân thì nên tập đi bằng đầu ngón chân và gót chân, kết hợp tập tạ chân cho máu lưu thông.
Các chuyên gia khuyến cáo, để không dẫn đến teo cơ, khi bị chấn thương người bệnh nên xoa bóp cho máu về cơ nhiều hoặc chườm nóng, ngâm nước nóng ấm để mạch máu trong cơ giãn, giúp cơ mềm ra. Khi cơ mềm thì sẽ vận động được dễ dàng hơn. Cách tốt nhất để phòng teo cơ vẫn là bắt cơ vận động và phải có sự hướng dẫn của bác sĩ.
Những trường hợp bị bong gân, giãn dây chằng, gãy xương... nên vận động sớm khi có thể. Khi bị chấn thương cần cố định, bệnh nhân vẫn có thể co cơ tĩnh bằng cách lên gân một ngày nhiều lần. Khi có điều kiện thì co cơ sớm bằng vận động và tăng dần vận động lên.
Người bệnh cần phải kiên trì, chịu đau, phục hồi cử động khớp, duy trì sức cơ, như thế mới hạn chế teo cơ, khôi phục khả năng vận động sớm. Ngoài ra, việc vận động chỗ bị thương còn tránh nguy cơ bị loét, tắc mạch chi... do tỳ đè lâu ngày. Tuy nhiên, việc vận động như thế nào, khi nào bắt đầu vận động nhất thiết phải có sự hướng dẫn của bác sĩ phục hồi chức năng.
Hải Phong (vnexpress.net)

16/04/2009

Điều trị gãy xương đùi ở trẻ em và các biện pháp phục hồi

Hiện nay gia đình tôi đang có cháu nhỏ 2,5 tuổi bị gã gẫy xương đùi, cháu đã được các bác sĩ ở bênh viện nhi Hải Phòng điều trị bó bột cho cháu trong 02 tháng cháu đã bỏ bột được 5 ngày và xuất viện về nhà. Khi xuất viện gia đình có chụp lại XQuang cho cháu nhưng thấy vết gẫy của cháu, theo như các bác sĩ có trả lời hai xương đã bò vào nhau trẻ nhỏ sau 2 năm là tự can xi nó sẽ ăn vào nhau bình thương. Xin hỏi các bác sĩ nên điều trị cho cháu cách nào tốt nhất để cháu đi lại được bình thường như cũ. Gia đình xin cảm ơn và rảt mong được các bác sĩ quan tâm trả lời giúp đỡ cháu trong thơìi gian sớm! (Mai Tuyết Nhung)

Trả lời:
Thông thường, các loại gãy xương ở trẻ em, trong đó có cả gãy thân xương đùi, đều có thể chữa khỏi bằng cách nắn chỉnh bó bột. Tuy nhiên, điều trị không mổ đối với gãy thân xương đùi ở trẻ em cũng khó khăn tương tự như người lớn vì:
Khó nắn chỉnh được các đầu gãy, mảnh gãy của xương về đúng vị trí giải phẫu ban đầu do xương đùi to, có nhiều cơ lớn khỏe bám vào và co kéo. Nếu có nắn được tương đối hoàn hảo thì cũng dễ bị di lệch thứ phát trong bột, do bột không thể cố định vững chắc suốt thời gian dài để cho xương liền vững
- Thời gian liền ổ gãy thân xương đùi ở trẻ em cũng tương đối dài, từ 1,5 đến 2,5 tháng. Trong thời gian mang bột dài như thế, dễ xảy ra loét các điểm tì, viêm phổi, viêm đường tiết niệu, gây hạn chế hầu hết các sinh hoạt cá nhân của các cháu.
- Khi xương liền vững, bệnh nhân tập vận động tích cực, song vẫn có tỷ lệ cao bị teo cơ, cứng khớp, ngắn chi, ảnh hưởng tới sức khỏe, thẩm mỹ của các cháu sau này.
Phương pháp điều trị gãy xương đùi bằng phẫu thuật có thể khắc phục được những nhược điểm trên của bó bột. Vì vậy, trước đây chỉ định mổ kết hợp xương đùi chỉ cho trẻ từ 12 tuổi, nay đã được hạ xuống mức 5 tuổi trở lên. Điều kiện để mổ kết xương đùi ở trẻ em là:
- Đã nắn chỉnh tích cực, đúng kỹ thuật, nhưng không đạt yêu cầu về giải phẫu, chức năng, thẩm mỹ.
- Cơ sở điều trị có điều kiện gây mê nội khí quản, hồi sức tốt, phẫu thuật viên chuyên khoa có kinh nghiệm, có đầy đủ dụng cụ phương tiện kết xương nẹp vít của AO.
- Bố mẹ các cháu tình nguyện xin mổ, và chịu trách nhiệm về quyết định của mình nếu một khi tai biến phẫu thuật xảy ra.
Phẫu thuật kết hợp xương cũng có hạn chế như:
- Tỷ lệ nhiễm trùng từ 0,5 đến 5%.
- Phải mổ lại để lấy bỏ nẹp vít ra khi xương đã liền tốt
- Giá thành điều trị cao so với thu nhập của đa số người dân, tối thiểu là khoảng 4 triệu đồng.
Các cơ sở y tế có chuyên khoa chấn thương chỉnh hình như bệnh viện tỉnh, bệnh viện quân khu - quân đoàn của quân đội đều có thể phẫu thuật được loại gãy xương này. Nếu có điều kiện, bạn đưa cháu về Khoa ngoại chấn thương chỉnh hình của Bệnh viện Nhi Trung ương Hà Nội để điều trị.
Hậu quả do gãy xương
Khi xương tay, chân bị gãy, có những trường hợp bị giập, như vậy không chỉ xương bị tổn thương mà các cơ, gân, dây chằng cũng bị tổn thương theo. Tùy theo từng mức độ thương tổn, bệnh nhân được bó bột hay phải mổ nẹp đinh trong xương và khâu lại phần mềm bị rách, giập. Sau một thời gian bị cố định, người bệnh hầu như không có sự vận động ở chỗ bị tổn thương cho nên dễ bị mất cảm giác và có biểu hiện teo ở những nơi này. Thậm chí có những trường hợp do đau đớn không chịu vận động đã dẫn đến loét do tỳ đè lâu ngày, thậm chí nhiễm khuẩn hô hấp, tắc mạch chi, giảm phản xạ đại tiểu tiện... đây là biểu hiện hay gặp ở người già. Vì vậy sau mổ, phải bó bột người bệnh phải tự giác, kiên trì, chịu đau, phục hồi cử động khớp, duy trì sức cơ, tỷ lệ liền xương sẽ tăng nhờ vận động.
Những biện pháp phục hồi bao gồm
Cử động khớp: Khớp bất động lâu sẽ bị cứng do cơ co ngắn lại, bao khớp bị co rúm, bao hoạt dịch tăng sản mỡ, sụn bị mỏng. Do vậy cử động khớp là cách tốt để bơm cho dịch khớp ra vào, khớp được nuôi dưỡng và trở nên mềm mại, tốc độ cho một lần co duỗi là 45 giây, mỗi lần tập10 - 15 phút, ngày 4 - 6 lần. Có thể tập từ ngày thứ 3 sau mổ hoặc sau bó bột.
Tập duy trì sức cơ: Tập tăng sức căng của cơ (độ dài bó cơ không thay đổi, khớp không cử động), tập co cơ (sao cho khớp cử động, co cơ ngắn lại). Khi khớp cử động còn đau nhiều thì tập căng cơ, khi khớp đỡ đau thì tập co cơ.
Tập đi: Dùng nạng gỗ tập đi khi xương chưa liền. Thanh ngang đầu trên nạng không được tỳ vào nách mà để tựa bên lồng ngực. Dáng đi thẳng, mắt nhìn thẳng ra phía trước, không cúi nhìn xuống chân. Hai vai phải ngang bằng không được lệch cao thấp. Tập bước đi có 3 điểm tựa, không tỳ hoặc chỉ tỳ nhẹ tăng dần lên chân đau. Hai tay chống nạng ngay ngắn, hai mũi nạng và bàn chân lành tạo nên tam giác đế. Đưa 2 nạng ra trước 10 - 30cm một cách tăng dần, lấy thăng bằng trên đôi tay cầm, rồi bước chân lành ra trước, tiếp tục bước khác. Giai đoạn tiếp theo, dùng gậy chống lúc xương đã gần liền vững. Nhiều người thích dùng gậy chống bên chân đau nên đã làm dáng đi bị xấu đi. Phải tập cho quen chống gậy bên chân lành và khi bước chân lành ra trước thì sức nặng trên chân đau và gậy chống sẽ cùng chịu một lúc. Không nên dùng nạng kẹp nách vì như thế dáng đi sau này trông sẽ tàn phế. Thời kỳ xương liền vững tỳ không đau ở ổ gãy xương thì bỏ gậy và tập đi như bình thường.
Dùng nhiệt: Tác dụng của dùng nhiệt là giảm đau, đỡ khó chịu, có lợi ích khi tập cử động chủ động. Dùng túi chườm nước nóng, chườm lên chỗ đau để luyện tập. Chú ý không được dùng nhiệt sóng ngắn cho toàn chi có đinh, nẹp vít vòng thép kim loại nóng lên có thể làm hỏng tổ chức, dễ gây viêm rò.Tập sinh hoạt thông thường: Cần tập làm động tác trong sinh hoạt bằng lên xuống cầu thang, bậc thềm nhà, tập ngồi xổm đứng lên. Đối với tổn thương xương tay thì tập nắm, mở bàn tay (dùng hòn đá hình quả trứng để nắm), tập cầm bút, đũa, tránh không để tay bị cong, khoèo. Khi nào không còn đau nữa, không bị hạn chế thì quá trình tập luyện này mới đạt kết quả tốt. Thời gian tập thường từ 6 tháng đến 2 năm, tùy theo mức độ thương tổn.
Biện pháp xoa nắn: Nên xoa nắn thường xuyên ổ gãy xương liền khớp. Chỉ xoa nắn nhẹ nhàng bằng tay mà không được dùng các loại dầu cao, cồn, thuốc xoa bóp nào để xoa vào các khớp, vì như vậy rất có thể làm cho xơ cứng khớp, vôi hóa cạnh khớp.
Khi bị chấn thương, để chóng lành, người bệnh cần kiên trì tập luyện, cần kết hợp các biện pháp tập luyện khác nhau để trở lại hình dáng ban đầu. Nếu có điều kiện, bạn đưa cháu về Khoa ngoại chấn thương chỉnh hình của Bệnh viện Nhi Trung ương Hà Nội để điều trị.
(Thông tin tư vấn sau đây chỉ mang tính tham khảo - không tự ý chữa bệnh theo thông tin này)
Chúc bạn và gia đình sức khoẻ
“Từ điển Y Dược trực tuyến” http://www.thuocbietduoc.com.vn
D.H.T (Theo VNMedia)
* BN ở miền Trung có thể thảo khảo ý kiến về phẫu thuật , điều trị gãy xương đùi tại Trung tâm Chỉnh hình & PHCN Qui Nhơn - 580 Nguyễn Thái Học, Qui Nhơn, Bình Định, ĐT 056. 3846513.

07/04/2009

Trẻ trật khớp háng dễ bị chẩn đoán nhầm

Tuần nào khoa chỉnh hình, Bệnh viện Nhi trung ương cũng phải mổ cho 2-3 ca trật khớp háng bẩm sinh. Do hiểu biết của bệnh nhân còn hạn chế và số cơ sở y tế có thể chữa bệnh này rất ít nên trẻ thường gặp phải nhiều phiền toái vì chữa muộn.
Gia đình cháu Ánh Ngọc, 2 tuổi rưỡi ở phường Kinh Bắc, thành phố Bắc Ninh phát hiện ra con có vấn đề khi Ngọc bắt đầu biết đi, lúc 14 tháng tuổi. Thấy con đi lệch hẳn người, bố mẹ đưa Ngọc đi khám ở bệnh viện tỉnh và được chẩn đoán là bị lệch xương, phải tập phục hồi chức năng.
Từ đó, suốt 1 tháng, cứ ngày hai lần bố cháu phải đưa con vào viện tập nhưng chẳng thấy cải thiện. Gia đình lại đưa cháu đến Bệnh viện Y học cổ truyền của tỉnh chữa thêm một tháng nữa nhưng tình trạng vẫn như cũ. Lúc này, mẹ cháu mang bầu đứa con thứ hai nên cả nhà quyết định tạm gác việc chữa bệnh cho Ngọc để chăm sóc mẹ và em bé.
Đến tuần vừa rồi, Ngọc mới được đưa đến Bệnh viện Nhi trung ương khám và phát hiện bị trật khớp háng bẩm sinh. "Nghe bác sĩ nói nếu chữa sớm thì đơn giản và cháu sẽ đỡ đau nhiều, còn giờ bắt buộc phải mổ cắt xương, tôi thấy ân hận và thương con quá", bố Ngọc chia sẻ.
Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hưng, trưởng khoa chỉnh hình, Bệnh viện Nhi trung ương, cho biết, đa số trẻ bị trật khớp háng bẩm sinh thường được phát hiện muộn dẫn đến điều trị không kịp thời. Một số cơ sở khám chữa bệnh không đúng chuyên môn còn hay chẩn đoán nhầm bệnh này là liệt gân cơ, co cứng gân cơ, bại liệt, lệch xương… dẫn đến điều trị không hiệu quả, kéo dài thời gian, bỏ qua giai đoạn ban đầu, làm bệnh thêm phức tạp.
Như trường hợp cháu Thành ở Thanh Hóa là ví dụ. Bố mẹ Thành khi thấy con đi không bình thường đã đưa cháu đến khám ở một phòng mạch tư và theo bác sĩ hướng dẫn tập nắn chỉnh hình. Thế nhưng sau 3, 4 năm, cháu vẫn không khỏi. Lúc này, bác sĩ nọ quay ra phán: "Ở Việt Nam hiện nay chưa chữa được bệnh này đâu, muốn chữa thì phải đi Singapore".
Kinh tế khó khăn, không thể đưa con đi nước ngoài chữa bệnh, bố mẹ Thành mới đưa cháu đến khoa chỉnh hình Bệnh viện Nhi trung ương và biết được bệnh của con hoàn toàn có thể chữa khỏi tại đây, có điều vì cháu đã lớn nên việc phẫu thuật sẽ khó khăn hơn.
Theo Phó giáo sư Hưng, bệnh này chủ yếu gặp ở các cháu gái, tỷ lệ thường thấy bên trái, hoặc cả hai bên. Các bậc phụ huynh có thể phát hiện sớm bệnh cho con dựa vào những dấu hiệu như: Thay tã cho bé khó vì hai đùi trẻ thường khép lại. Nếp bẹn bên trật khớp thường dài hơn bên lành, nếp lằn mông bên đó cũng thấp hơn. Đặc biệt, khi sốc nách nhìn từ phía sau sẽ thấy đùi bên có bệnh co gấp hơn.
Bệnh này có thể thấy ngay qua chụp Xquang và siêu âm. Hiện nay, siêu âm trong thai cũng có thể phát hiện được bệnh.
Phó giáo sư Hưng khuyến cáo, khi bố mẹ phát hiện trẻ có biểu hiện bất thường như dáng đi không bình thường, đùi và hông hai bên lệch nhau... thì cần đưa ngay đến cơ sở có chuyên khoa chỉnh hình nhi để được điều trị càng sớm càng tốt, nếu phải can thiệp bằng phẫu thuật cũng đơn giản hơn. Trong nhiều năm nay, Bệnh viện Nhi trung ương đã mổ rất nhiều trường hợp bị bệnh này và có kết quả tốt.
Ngay sau khi sinh, nếu trẻ bị bệnh có thể điều trị bằng mang nẹp hoặc dụng cụ. Sau 3 tháng nếu kết quả hạn chế thì bé sẽ được phẫu thuật kết hợp, có thể là cắt hoặc chuyển một số gân cơ, rồi bó bột cố định trong khoảng 6-8 tuần. Nhưng từ 6 tháng trở lên, trẻ sẽ được chỉ định can thiệp vào xương, nếu phức tạp. Sau 9 tháng thì chắc chắn phải can thiệp vào xương chậu, tạo lại ổ cối (khoang chứa chỏm xương đùi).
Nếu để lâu nữa, khoảng 24 tháng trở lên, bác sĩ phải cắt xương đùi, tạo lại góc cổ và thân xương đùi cho trẻ. Đây là phẫu thuật rất nặng nề, thường gây chảy máu và tốn kém.
"Để càng lâu, bệnh ngày càng nặng, mổ càng khó, thời gian bình phục dài, trẻ đau đớn hơn nhiều. Nếu không chữa kịp thời bệnh có thể gây những biến dạng kéo theo như biến dạng cột sống, lệch vẹo xương chậu... ở trẻ", bác sĩ Hưng cảnh báo.
Minh Thùy (Theo VnExpress)

31/03/2009

Cần cảnh giác với máy đo loãng xương

Hiện nay, nhiều người đổ xô đi đo độ loãng xương mà không chú ý đến độ tin cậy của máy móc. Giáo sư Trần Ngọc Ân, Chủ tịch Hội Thấp khớp cảnh báo về hiện tượng này.
Loãng xương là hiện tượng tăng phần xốp của xương, giảm khối lượng xương trong cơ thể, làm cho xương giòn, dễ gãy. Xương thường gãy ở các vị trí quan trọng như cổ xương đùi cổ tay, xương chậu, xương sống... làm biến dạng cột sống, vẹo đốt sống, còng, gù, gây ảnh hưởng lớn đến cuộc sống, thậm chí dẫn đến tử vong nếu nằm lâu ngày mà sinh bệnh ở phổi, tim mạch, tiêu hóa.
Các hình thức đo loãng xương "thương mại" (thu phí ít hoặc miễn phí) bằng máy siêu âm ở một số cơ sở y tế, hay đưa tới từng xã, phường, cơ quan, câu lạc bộ thể dục... sau đó bán thuốc, bánh, sữa calci là hành động thiếu lành mạnh, gây sự tốn kém về thời gian, tiền bạc và mua thêm sự lo lắng, sợ hãi... trong nhân dân.
Đây là loại máy rẻ tiền, chỉ đo được một số vị trí ngoại biên như gót chân, cổ tay nên không thể lấy đó làm đại diện cho toàn bộ xương của cơ thể. Hơn nữa, máy dùng sóng siêu âm đi vào xương (mật độ rìa ngoài của xương) rồi phản xạ lại nên chưa đo được mật độ bên trong của xương vì thế chưa đủ yếu tố để kết luận đúng tình trạng thực của xương. Máy này chỉ có tác dụng điều tra, sàng lọc ở cộng đồng. Nếu lấy kết quả chẩn đoán này rồi chỉ định dùng thuốc hay các chế phẩm calci cho bệnh nhân là việc làm sai, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe.
Loãng xương rất thường gặp ở người có tuổi, đặc biệt là phụ nữ sau mãn kinh. Hiện nay trên thế giới có khoảng 200 triệu người bị loãng xương. Dự đoán năm 2050, châu Á và các nước chậm phát triển là nơi sẽ diễn ra 50% các trường hợp gẫy cổ xương đùi
Nội tiết tố có khả năng điều hòa quá trình phát triển của xương. Vì thế, ở người trẻ tuổi, sự hoạt động của tế bào tạo xương và hủy xương là cân bằng, nhờ đó xương luôn phát triển và đổi mới. Ở phụ nữ trên 40 tuổi và thời kỳ mãn kinh, do sự suy giảm của nội tiết tố nữ làm cho khả năng điều hòa quá trình phát triển xương mất cân đối. Do vậy, đối với phụ nữ trong và sau khi mãn kinh thường có lời khuyên bổ sung calci.
Nếu bổ sung calci bằng các thuốc hoặc chế phẩm giàu calci (sữa giàu calci, calciferol, các loại thuốc có calci, vitamin D, Biphotphonat... ) phải có sự theo dõi chặt chẽ, bởi khi sử dụng những sản phẩm này sẽ làm tăng calci huyết. Khi calci huyết cao có thể lắng đọng calci ở cầu thận hay ống thận (gây sỏi thận) và đưa đến suy thận. Hơn nữa, khi sử dụng một hàm lượng calci cao (cơ thể không hấp thu hết) thì calci sẽ hút nước ở thành ruột và làm tăng nhu động ruột gây tiêu chảy, rối loạn tiêu hóa, sỏi thận, rối loạn vận động, thậm chí gây loét dạ dày, tá tràng.
Đối với việc kiểm tra loãng xương, hiện nay Tổ chức Y tế thế giới chỉ công nhận máy dùng tia X hai bình diện (DEXA) là tiêu chuẩn vàng để đánh giá mức độ loãng xương (chính xác đến 96 - 98%). Một chùm tia X hướng vào một vị trí nào đó của cơ thể như cột sống, cổ xương đùi hay toàn bộ cơ thể và đo năng lượng của chùm tia đó khi nó ra khỏi cơ thể. Càng có nhiều chất khoáng (đặc) trên đường đi của chùm tia thì năng lượng của chùm tia càng mất nhiều. Từ sự sụt giảm năng lượng của chùm tia, máy tính đo được khối chất khoáng của xương khi chùm tia đi qua cơ thể. Và đó là tỷ trọng chất khoáng của xương (Ts).
Một người có kết quả Ts = +- 1 là bình thường, nhỏ hơn 1,5 đến -2 là xương bị nhược (giảm chưa đến mức bệnh lý); còn -2,5 là loãng xương bệnh lý và cần phải điều trị. Ở VN, tỷ lệ bị loãng xương ở người già khoảng 20%.
Những biểu hiện lâm sàng của loãng xương chỉ thể hiện khi trọng lượng xương giảm trên 30%. Vì thế, những người bị đau vùng cánh chậu, vùng đốt sống thắt lưng, đau dây thần kinh hông, thần kinh liên sườn lan ra phía bụng thì phải đi thăm khám và điều trị. Những người có nguy cơ cao cũng nên kiểm tra: nữ từ 50 tuổi, nam từ 60 tuổi; những người đã cắt bỏ buồng trứng; những người có bệnh phải nằm lâu bất động; những người có bệnh về tiêu hóa hoặc tiết niệu không hấp thu được thực phẩm và calci hoặc có bệnh về thận (thải calci ra ngoài); người nghiện rượu; người ít vận động, hoạt động thể lực.
Theo An ninh thủ đô (Việt Báo)

14/11/2008

Sưu tầm một số bài về xương khớp đăng trên Bibi.vn

Bệnh Perthes
Đầu của xương đùi mềm dần tiếp sau các đợt hình thành và cứng xương được gọi là bệnh Perthes. Bệnh do sự thiếu máu ở đầu xương đùi. Bệnh thường xảy ra ở trẻ con, đặc biệt là là các bé trai tuổi từ 4 đến 8 tuổi.
Tuy bệnh Perthes lành một cách tự nhiên trong vòng 2 đến 4 năm, nhưng trị liệu cũng cần phải được thực hiện càng sớm càng tốt để khớp xương hông không bị biến dạng.Triệu chứngTriệu chứng chính của bệnh là:- Đi cà nhắc.- Đau ở hông và đầu gối.- Giới hạn cử động ở xương hông.Nếu bé bị đau ở hông hoặc gối và hoặc đi cà nhắc thì bé cần được đi khám trong vòng 24 giờ.Điều trịBác sĩ sẽ khám bệnh bé và có thể chuyển bé vào viện chụp X- quang khớp xương hông để tìm ra nguyên nhân gây bệnh. Trị liệu tuỳ thuộc vào mức độ nặng hay nhẹ của bệnh.Ở vài trường hợp nặng, chỉ cần nghỉ ngơi tại chỗ từ 1 đến 2 tuần cho đến khi nào khớp bớt đau và theo dõi đều đặn qua X- quang là đủ. Nếu khớp có nhiều biến dạng thì bé phải mang nạng, nẹp hoặc khung nhựa. Trong các trường hợp nặng hơn, sẽ phải cố định đầu xương đùi với ổ xương chậu để làm cho xương hông bị biến dạng.Tiên lượngNếu phát hiện sớm, chữa trị kịp thời hoặc bệnh không quá nặng thì viễn cảnh phục hồi bệnh càng tốt đẹp. Thường biến dạng của khớp xương hông có thể tránh được và khớp có thể hoạt động bình thường. Trong một vài trường hợp quá trầm trọng, biến dạng khớp không thể nào tránh được, ngay cả khi đã được điều trị và có nguy cơ sẽ bị viêm khớp xương hông sau này.
Bibi.VN (sưu tầm)

Trật khớp xương hông bẩm sinh
Khoảng 1/250 bé sơ sinh bị sai khớp xương hông bẩm sinh. Trong trường hợp này đầu của xương đùi nằm ở bên ngoài ổ của xương chậu hoặc không cố định và dường như bị trật ra ngoài vị trí.
Các bé thường được khám tổng quát để phát hiện sai khớp xương hông ngay sau khi sinh và các khuyết tật được đưa vào trong các kiểm tra định kỳ kéo dài trong trọn một năm đầu của bé. Sai khớp xương hông bẩm sinh có tính di truyền và thường xảy ra ở các bé gái hơn là các bé trai.Nguyên nhânMặc dầu nguyên nhân tiềm ẩn chưa được xác định. một hoặc cả hai xương hông của bé bị sai khớp hoặc không cố định vì sợi bao quanh khớp xương hông bị yếu hoặc vì ổ của xương chậu cạn hơn bình thường.Triệu chứngSai khớp xương hông thường được phát hiện rất sớm sau khi sinh bằng kỹ thuật nắn bóp đùi và hông bé. Siêu âm có thể dùng để chẩn đoán khuyết tật này. Triệu chứng cũng có thể được phát hiện sau này trong những lần kiểm tra định kỳ trong năm đầu tiên của bé. Cũng có khi sự rối loạn này cũng không đựơc phát hiện mãi đến khi bé bắt đầu đi bạn mới nhận thấy:- Bé đi cà nhắc.- Phía sau của chân bị tổn thương có nhiều lớp da ở bên dưới mông hơn là phía chân không bị tổn thương.Nếu bạn nghi ngờ bé bị sai khớp hông bẩm sinh thì cần phải cho bé đi khám bác sĩ.Điều trịMột xương hông không vững thường trở lại bình thường ngay sau khi sinh. Nếu các bất thường của xương hông mà bé không tự sửa được trong vòng hai tuần tuổi, thì sẽ phải dùng nẹp để đưa đầu xương đùi vào trong ổ của hố xương và giữ yên tại chỗ. Nẹp thường sẽ mòn trong 2 đến 4 tháng. Bạn sẽ được chỉ dẫn cách chăm sóc bé trong khi bé mang nẹp. Khi nẹp được gỡ ra, khớp xương hông sẽ trở lại bình thường. Tuy nhiên nếu tật sai khớp xương hông bị bẩm sinh của bé được phát hiện cho đến kỳ kiểm tra định kỳ lần tới (thường khoảng 6 tuần hoặc hơn) thì đầu của xương đùi sẽ được đưa vào vị trí của ổ xương và giữ tại chỗ bằng cách kéo căng trong nhiều tuần lễ. Kèm theo phương pháp kéo căng bé cũng phải mang nẹp hoặc khung nhựa trong nhiều tháng.Nếu bé bắt đầu đi trước khi khuyết tật được phát hiện, bạn sẽ tiến hành giải phẫu để sửa chữa dị tật.Tiên lượngTiên lượng bệnh càng sáng sủa nếu việc chữa trị càng được thực hiện sớm. Nếu bé được chữa trị sớm trong kỳ ấu thơ thì bé sẽ có thể đi được bình thường và không có nguy cơ mang các hậu quả của bệnh sau này. Tuy nhiên nếu việc chữa trị bị bị trì hoãn hoặc không chữa trị kịp thời thì bé sẽ có nguy cơ bị mang tật cà nhắc vĩnh viễn và có thể bị viêm khớp sớm ở đầu hông.
(Theo sách Triệu chứng $ Điều trị Bệnh Trẻ Em - Nhà Xuất Bản Phụ Nữ)

Trật khớp đầu xương đùi:
Sự tăng trưởng của đầu xương đùi bắt đầu từ đĩa tăng trưởng gần đầu xương chia xương thành hai vùng: đầu xương và thân xương.

Trượt đầu xương đùi thường xảy ra khi đầu trên xương đùi là một phần của khớp xương hông trật khỏi vị trí ổ xương của nó. Rối loạn này thường xảy ra ở các thanh thiếu niên đang trong đà tăng trưởng (con gái từ 10 đến 14 tuổi,con trai từ 12 - 16 tuổi) thường hay mắc phải khuyết tật này.Nguyên nhânỞ các trẻ đang lớn, xương đùi tăng trưởng chính ở đầu trên. Đĩa tăng trưởng, tức nơi hình thành xương là một đĩa sụn vì thế là vùng yếu nhất của xương. Do đó đầu trên của xương rất dễ bị xe dịch, (xem hình bên phải). Đầu xương đùi có thể bất thần bị trượt khỏi vị trí phá vỡ đĩa tăng trưởng và gây thương tích, hoặc nó có thể trượt dần mà không rõ nguyên nhân. Triệu chứng Các triệu chứng bao gồm:- Đau ở hông hoặc gối và đùi.- Không thể chịu đựng được sức nặng ở chân đau.- Đi cà nhắc hoặc đi chân bẹt, vì chân xoay hướng ra ngoài.- Các động tác bị giới hạn ở xương hông.Nếu bé bị đau ở hông , đùi hoặc đầu gối và đi cà nhắc thì phải đi khám bác sĩ trong vòng 24 giờ.Điều trịBác sĩ sẽ khám bệnh cho cháu và có thể chuyển cháu đến bệnh viện chụp X- quang xương hông. Nếu X- quang cho biết bị trượt đầu xương đùi thì cần phải phẫu thuật. Nếu trượt nhẹ thì đầu xương của bé được giữ yên tại chỗ và cố định bằng đinh ốc để tránh các lần trượt khác. Trong cùng lần phẫu thuật này đầu xương hông bên kia cũng được cố định theo cùng một phương cách. Nếu trật khớp nặng hơn, một phần bờ xương sẽ được cắt bỏ bên phía dưới của đầu trên xương để cho đầu xương có thể trở về vị trí bình thường của nó trong ổ xương chậu.Tiên lượngĐược điều trị nhanh chóng xương hông sẽ trở lại bình thường và tiên lượng lâu dài của bệnh sẽ tốt. Sau khi hồi phục, trẻ sẽ trở lại cuộc sống năng động bình thường. Sẽ có thể không bị trượt đầu xương trở lại, đặc biệt khi đã qua thời kỳ phát triển tăng vọt ở tuổi dậy thì. Tuy nhiên, trong một vài trường hợp, xương hông bị bệnh sẽ trở nên đơ cứng và đau và có thể sẽ bị viêm khớp về sau.
(Theo sách Triệu chứng $ Điều trị Bệnh Trẻ Em - Nhà Xuất Bản Phụ Nữ)

Rối loạn đầu gối:
Những rối loạn của đầu gối phổ biến nhất ở trẻ con là bệnh u sụn xương bánh chè và bệnh Osgood-Schlatter. Bệnh thường xảy ra ở thiếu niên và phát triển vì trẻ vận động các khớp quá mức. Một hoặc cả hai đầu gối đều có thể bị bệnh.
(ảnh sưu tầm)
Bệnh u sụn xương bánh chèTrong bệnh này, sụn ở phía sau xương bánh chè trở nên mềm, sưng và nhám. Con gái tuổi từ 15 đến 18 thường mắc bệnh này.Triệu chứng chính của bệnh là đau ở phái sau xương bánh chè. Đau càng nặng nếu vận động (đặc biệt là lên cầu thang) và dễ chịu khi được nghỉ ngơi.Điều trịNghỉ ngơi chính là phương pháp điều trị. Trẻ cần phải tránh mọi hoạt động gây đau nhiều hoặc tránh các động tác bắt đầu gối phải làm việc lặp đi lặp lại như đạp xe đạp. Cho trẻ uống Paracetamol để giảm đau. Nếu đau nhiều và đau trong vòng 24 giờ, trẻ phải được các bác sĩ khám bệnh để loại trừ các rối loạn trầm trọng hơn.Tiên lượngCó các cơn đau phía sau bánh chè có thể tái phát trong suốt thời niên thiếu. Hầu hết các cháu không có triệu chứng trong vòng một năm ở giai đoạn ngưng tăng trưởng. ở một vài trường hợp, bệnh viêm khớp có thể phát triển sớm.bệnh osgood-schlatterTrong bệnh này có viêm xương chày (xương ống chân) ngay phía dưới đầu gối, chỗ mà dây chằng rộng gắn vào (xem ảnh bên phải). Bệnh thường gặp ở các bé trai tuổi từ 10 đến 14.Triệu chứng chính gồm căng cơ, đau và sưng ngay bên dưới gối và thường đau nhức hơn khi cử động. Trẻ phải được đi khám bác sĩ chỉnh hình để điều trị.Điều trịBác sĩ chỉnh hình sẽ yêu cầu cháu bé thoát các hoạt động thể chất căng thẳng như đá bóng trong nhiều tháng. Nếu cơn đau trở nên trầm trọng và kéo dài trên hơn một tháng, ngoài việc không được hoạt động thể chất năng động, còn phải cố định trong khung nhựa từ 6 đến 8 tuần. Phương pháp chữa trị này thường rất hiệu nghiệm. Nếu trẻ tiếp tục thực hiện nhẹ nhàng các động tác thì sẽ có cơ may bệnh không tái phát cho đến khi chúa hơn 14 tuổi.
(Theo sách Triệu chứng $ Điều trị Bệnh Trẻ Em - Nhà Xuất Bản Phụ Nữ) Bibi.vn

10/11/2008

Lạm dụng tiêm khớp: Coi chừng tàn phế

Nhiều người coi việc tiêm trực tiếp vào khớp như biện pháp chữa đau khớp đặc biệt hiệu quả và ít tốn kém. Song, không ít trường hợp chỉ đến mũi tiêm thứ hai đã bị biến chứng nhiễm trùng, teo cơ, cứng khớp, mất chức năng vận động.
Tại Bệnh viện E - Hà Nội, bệnh nhân H.B.S (48 tuổi, ngụ tại Hoài Đức - Hà Nội) được chẩn đoán bị nhiễm trùng nặng, khớp sưng to, nóng đỏ, đau nhức... do tiêm vào khớp. Dù được phẫu thuật dẫn lưu mủ, mổ nạo vét hoại tử, cắt lọc mô viêm kết hợp dùng kháng sinh nhưng sau một tháng điều trị, bệnh nhân S. vẫn chưa đi lại được, thậm chí còn có nguy cơ cứng khớp.
Theo bệnh nhân S., cách nay 2 năm, ông bị đau khớp nên đã đến phòng khám tư để chữa trị. Sau 2 lần tiêm trực tiếp vào khớp, cơn đau đỡ hẳn, song đến mũi tiêm thứ ba, ông không thể đi lại được vì khớp chân sưng phù.
Hiệu quả nhanh, song nhiều biến chứng
H. Điều trị bệnh nhân bị tai biến do lạm dụng tiêm khớp tại Bệnh viện E - Hà Nội
Các bác sĩ cho biết viêm khớp là triệu chứng có các biểu hiện sưng, nóng, đỏ, đau tại các khớp. Bệnh thường gặp ở tuổi bắt đầu của sự lão hóa, nhưng cũng có thể xảy ra ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều bệnh nhân nhập viện do biến chứng nhiễm trùng khớp, teo cơ, cứng khớp gối..., chỉ vì lạm dụng tiêm thuốc vào khớp, nhất là corticoid.
Theo bác sĩ Nguyễn Thị Lực, Giám đốc Trung tâm Xương khớp Bệnh viện E, có nhiều cách điều trị khớp, nhưng thủ thuật tiêm vào ổ khớp hiệu quả hơn cả. Bởi, hầu như những người được tiêm thuốc, nhất là corticoid thường giảm đau rất nhanh và có thể phát huy tác dụng tới 4-5 tháng.
Tuy nhiên, phương pháp này bắt buộc phải được chỉ định của bác sĩ chuyên khoa có kiến thức và tay nghề. Thực tế, có không ít trường hợp lạm dụng việc tiêm vào khớp để trị bệnh đã và đang lâm vào tình trạng teo cơ, loãng xương, xốp xương, suy nhược thận, mất chức năng vận động, thậm chí liệt toàn thân...
Bác sĩ Lực cảnh báo: Nhiều bệnh nhân thấy tác dụng nhanh của việc tiêm vào khớp nên dễ dãi chấp nhận thủ thuật này tại nhà hoặc tiêm ở nơi không bảo đảm vô khuẩn, đã gây ra nhiều hậu quả xấu. Thậm chí, nhiều nhân viên y tế không phải chuyên khoa còn chỉ định tiêm cho cả bệnh nhân viêm khớp nhiễm khuẩn, khiến bệnh càng nặng thêm, làm hủy hoại xương khớp, nhiễm trùng nghiêm trọng và gây tử vong.
Một năm không tiêm quá 3 lần
GS-TS Trần Ngọc Ân, Chủ tịch Hội Thấp khớp VN, cho rằng việc tiêm vào khớp chỉ nên thực hiện khi người bệnh đã dùng thuốc kháng viêm không steroid không hiệu quả, các thuốc điều trị ít tác dụng. Thông thường sau mũi tiêm đầu tiên, tác dụng có thể kéo dài tới 4 tháng, thậm chí nửa năm; nhưng mũi thứ hai công dụng đã bị rút ngắn một nửa và đến mũi thứ ba, bệnh nhân có thể gặp một số biến chứng.
Theo GS Ân, tiêm khớp thường được chỉ định trong khi điều trị viêm gân, dây chằng quanh khớp, viêm khớp dạng thấp, bệnh thoái hóa khớp mức độ nhẹ hoặc trung bình, bệnh gút và giả gút, điều trị đau dây thần kinh tọa. “Một số bệnh nhân lầm tưởng việc trộn lẫn vitamin B12, kháng sinh với corticoid vào khớp sẽ rất tốt, nhưng đây là quan niệm sai lầm vì chúng sẽ gây tai biến tại chỗ, rất khó khắc phục. Thêm nữa, bệnh nhân cũng cần lưu ý khi tiêm khớp không được quá 3 lần trong một năm và mỗi lần tiêm không được quá 3 khớp”- GS Ân khuyên.
BS Nguyễn Thị Lực khuyến cáo: Bệnh nhân nên cẩn thận với các loại thuốc tiêm khớp, nhất là thuốc có tác dụng giảm đau nhanh. Corticoid rất tốt trong việc kháng viêm, giảm đau nhưng nếu không bảo đảm vô trùng, nó sẽ gây nhiễm trùng và làm bệnh càng nặng thêm. Do đó, các bác sĩ thường chống chỉ định tiêm corticoid vào ổ khớp ở các trường hợp lao khớp, viêm khớp nhiễm khuẩn, tổn thương ngoài da vùng tiêm, các chấn thương khớp chưa ổn định... Trường hợp đã tiêm rồi, nếu sau đó xuất hiện các triệu chứng nóng, đỏ, sốt, đau khớp, cần đến bệnh viện điều trị kịp thời. Theo Nguoilaodong - Tintuc Online

08/09/2008

Sau đột quỵ nên tập luyện trên máy tập chạy

(Dân trí) - Luyện tập trên máy tập chạy có thể giúp nối lại liên kết giữa các phần của bộ não và qua đó cải thiện được khả năng đi bộ của bệnh nhân sau cơn đột quỵ, theo một nghiên cứu mới tại Mỹ.
Nghiên cứu này cũng cho rằng những bài tập trên máy tập chạy có vẻ như tốt hơn bài tập căng duỗi, một bài tập truyền thống vẫn được áp dụng cho bệnh nhân sau đột quỵ.

Các nhà khoa học ở trường ĐH Maryland và TT Y tế cựu chiến binh ở Baltimore đã tiến hành so sánh 37 bệnh nhân được áp dụng “liệu pháp tập trên máy tập chạy lặp lại và tăng dần” với 34 bệnh nhân được áp dụng bài tập căng duỗi. Đây là những bệnh nhân bị liệt nửa người mãn tính sau khi trải qua đột quỵ ít nhất 6 tháng. Những bệnh nhân này đều đã hoàn thành tất cả các bài tập hồi phục thông thường.
Nhóm thứ nhất được yêu cầu thực hiện bài tập chạy trên máy tập chạy ba lần trong một tuần với tốc độ tương đương với 60% nhịp tim. Bài tập được kéo dài trong 40 phút. Chương trình tập kéo dài trong 6 tháng, thời gian và cường độ tập được tăng dần 2 tuần một lần. Nhóm thứ hai thực hiện bài tập căng duỗi truyền thống cũng được theo một chương trình tập với thời gian và cường độ tương tự.
Các nhà nghiên cứu đánh giá kết quả theo ba tiêu chí: hoạt động của não qua ảnh chụp cộng hưởng từ; khả năng đi bộ và khả năng thích ứng của cơ thể.
Nhóm thực hiện bài tập chạy trên máy chạy đã cho kết quả tốt hơn trên cả ba tiêu chí này. Đặc biệt có sự khác biệt rất lớn về hoạt động của não giữa hai nhóm. Các ảnh chụp não cho thấy hoạt động của não đã được tăng cường tới 72% đối với nhóm thứ nhất trong khi không có sự thay đổi nào trong não xảy ra ở nhóm thực hiện bài tập căng duỗi truyền thống.
Sau chương trình tập luyện nói trên, các bệnh nhân của cả hai nhóm thực hiện những bài tập uốn gối giống như đang đi bộ. Ảnh chụp não cho thấy liệu pháp tập luyện trên máy tập chạy giúp bệnh nhân sau đột quỵ tăng cường tuần hoàn máu lên khu vực tế bào gốc của não và óc.
Điều này có nghĩa là các tế bào gốc của não đã được tận dụng để tái phục hồi một số phần của vỏ não chịu trách nhiệm thực hiện chức năng đi bộ đã bị phá hủy bởi đột quỵ. Kết quả là nhóm tập trên máy tập chạy có khả năng tăng tốc độ đi bộ và sự thích ứng của cơ thể tốt hơn nhóm tập bài tập căng duỗi truyền thống. Điều này đặc biệt quan trọng bởi vì sự bại liệt ở những bệnh nhân sau đột quỵ có thể dẫn tới các bệnh về tim mạch và tiểu đường.
Dựa trên các kết quả thu được, nhóm nghiên cứu đã đề nghị đưa các bài tập trên máy tập chạy vào các chương trình tái phục hồi chức năng vận động cho các bệnh nhân sau đột quỵ.
Theo như lời của Andreas Luft, một trong những người lãnh đạo nghiên cứu thì “Phương pháp này rất có triển vọng vì nó kích thích sự hình thành những mạch thần kinh mới hay kích hoạt các mạch không được sử dụng và cải thiện khả năng đi bộ của các bệnh nhân sau đột quỵ”, Luft cũng là giáo sư thần kinh học lâm sàng và tái phục hồi thần kinh ở khoa thần kinh học tại đại học Zurich, Thụy Sĩ, cho biết.
Công trình này sẽ được công bố trên tạp chí Stroke của hiệp hội tim mạch Mỹ trong tháng giêng năm 2009. NH-Theo WebMD (Dân trí)

25/06/2008

Bệnh khớp thoái biến (Degenerative joint disease)

Bác sĩ Nguyễn Văn Đức
8748 E. Valley Blvd. # H
Rosemead, CA 91770
(626) 288-3306
Khớp (joint) là các chỗ những đầu xương nối với nhau. Trong khớp có nhiều cơ cấu rất tinh vi, phối hợp hoạt động để khớp vừa vững chắc vừa linh động. Sụn khớp (articular cartilage), phần quan trọng của khớp, bao bọc các đầu xương như một lớp đệm, giúp các đầu xương trong khớp nhẹ nhàng trượt lên nhau khi khớp chuyển động.
Ở Mỹ đã lâu, chúng ta cần hòa nhập vào dòng y khoa Mỹ, dùng những từ y khoa Mỹ họ dùng: đau cổ (neck pain), đau vai (shoulder pain), đau khuỷu tay (elbow pain), đau cổ tay (wrist pain), đau lưng (back pain), đau lưng dưới (low back pain), đau hông (hip pain), đau gối (knee pain), đau cổ chân (ankle pain), đau khớp (joint pain), viêm khớp (arthritis: khớp vừa đau, vừa sưng to, nóng đỏ). Nên bỏ hai chữ “phong thấp” vào sọt rác quá khứ, vì những chữ này mơ hồ, không biết dịch sang tiếng Anh thế nào. Xin nhớ, vào nhà thương, các bác sĩ, y tá họ nói tiếng Anh, chúng ta cần dùng đúng chữ để họ hiểu (nếu cần thông dịch, người thông dịch cũng dịch được dễ dàng). Các thuốc Ibuprofen, Motrin, Aleve, Celebrex, ..., thuần túy, chỉ là thuốc chống đau như Tylenol, Aspirin, không nên gọi chúng là “thuốc phong thấp”.
Bệnh khớp nhiều lắm. Ba bệnh khớp làm khổ chúng ta nhiều nhất: “osteoarthritis”, (bệnh viêm xương-khớp), “rheumatoid arthritis” (bệnh viêm khớp rheumatoid) và “gout” (thống phong). Hôm nay, chúng ta tìm hiểu bệnh “osteoarthritis”, tên khác dễ hiểu hơn: “degenerative joint disease” (bệnh khớp thoái biến).
Bệnh khớp thoái biến xảy ra nhiều nhất trong các loại bệnh khớp. Ở Mỹ, đến 12% dân số mang bệnh khớp thoái biến, và với các vị trên 70 tuổi, tỉ lệ gần 35% (tức cứ 3 người, 1 người bị). Rất nhiều vị, đi từ phòng ngủ sang phòng tắm cũng khó khăn, vì khớp gối, khớp hông đau nhức quá.
Đời người chúng ta ví như chiếc xe hơi, chập chững chạy đầu đời, bon bon chạy giữa đời, rồi chậm dần vào cuối đời. Do máy đã rêm, bánh đã mòn. Các khớp của ta giống những bánh xe hơi, dùng lâu tất mòn. Bệnh khớp thoái biến gây do sự mòn lở của sụn khớp (articular cartilage), nhất là ở những vùng sụn phải trực tiếp nâng đỡ sức nặng của cơ thể. Do thế, bệnh thường tấn công các khớp mang sức nặng (hông, gối, lưng dưới, ...), hoặc khớp sử dụng nhiều trong công việc hàng ngày (các khớp ngón tay, khớp nơi gốc ngón tay cái).
Dưới tuổi 55, các khớp mòn giống nhau ở cả nam lẫn nữ. Tuổi cao hơn, khớp hông bị nhiều hơn ở đàn ông, còn phụ nữ hay có bệnh ở các khớp ngón tay và gốc ngón cái. Phụ nữ cũng đau khớp gối nhiều hơn đàn ông.
Ai dễ bị bệnh khớp thoái biến?
Nhiều yếu tố đưa ta đến với bệnh khớp thoái biến:
- Tuổi tác: yếu tố quan trọng nhất. Càng cao tuổi, các khớp ta càng dễ hao mòn.
- Phái tính: phụ nữ dễ mang bệnh hơn đàn ông. (Phải chăng, so ra, nữ giới vẫn phải làm việc nhiều hơn nam giới, việc sở, việc nhà?).
- Chấn thương: những khớp trước từng bị chấn thương hoặc sử dụng nhiều quá dễ mang bệnh. Chẳng hạn, người vũ ballet hay có bệnh ở khớp cổ chân. Ngược lại, các võ sĩ boxing hay mang bệnh ở khớp nối bàn tay và ngón tay. Người làm những nghề nghiệp cần quì gối dễ mang bệnh ở khớp gối.
- Nặng cân: xe nặng, bánh tất mau mòn. Người nặng, khớp mau hư, nhất là khớp gối.
- Bệnh bẩm sinh: khiến khớp bất thường ngay từ lúc mới sanh.
- Bệnh nội tiết: tiểu đường, suy tuyến giáp trạng, ...
Định bệnh
Ta đã biết, trong khớp có sụn khớp (articular cartilage), bao bọc các đầu xương như một lớp đệm, giúp các đầu xương nhẹ nhàng trượt lên nhau khi khớp chuyển động. Bệnh khớp thoái biến gây do sự mòn lở của sụn khớp. Khi sụn mòn hoặc lở vỡ, các đầu xương không còn uyển chuyển trượt lên nhau, nên gây đau nhức, cứng khớp, ...
Tuy vậy, rất nhiều trường hợp bệnh không gây đau gì cả. Có người chẳng bao giờ đau, tình cờ chụp phim, phim chụp cho thấy khớp đã mòn.
Đau khớp, nếu xảy ra, trong giai đoạn đầu, thường là cái đau âm ỉ, cảm thấy sâu trong khớp bệnh: khớp lưng, hoặc khớp hông, khớp gối, khớp ngón tay, ... Người bệnh thấy đau nhiều hơn khi đi lại, sử dụng khớp, và bớt đau lúc nghỉ ngơi. Khi bệnh tiến triển đến giai đoạn nặng hơn, cái đau thành liên tục, làm khổ cả vào ban đêm.
“Công chúa đứt tay, ăn mày đổ ruột”. Mỗi người chúng ta cảm nhận cái đau một khác. Cùng một mức độ bệnh lý của khớp, phụ nữ than đau nhiều hơn đàn ông, người hưởng trợ cấp than đau nhiều hơn người đi làm, và người ly dị than nhiều hơn người có gia đình hạnh phúc. Người ta cho rằng trong bệnh khớp thoái biến, như chứng đau lưng, như nhiều bệnh khác, những yếu tố tâm lý và xã hội có ảnh hưởng quan trọng, khiến người bệnh cảm thấy đau nhiều hay ít.
Triệu chứng quan trọng khác là cứng khớp (stiffness). Khớp thường cứng vào buổi sáng mới ngủ dậy hoặc sau lúc nghỉ ngơi một thời gian ngắn trong ngày. Cứng khớp không kéo dài lâu, chỉ khoảng 20 phút.
Đến giai đoạn nặng, khớp mất hình dạng bình thường, méo mó, to lên, và không còn gập, duỗi được hết mức. Có khi, đang đi, khớp khựng lại. Khớp sờ thấy đau, hoặc sưng và hơi nóng. Khi khớp chuyển động, sờ như thấy các đầu xương trong khớp chạm vào nhau, kêu “lục cục lạc cạc”.
Sự định bệnh dựa vào bệnh sử (triệu chứng do người bệnh kể), sự thăm khám, và phim chụp. Phim chụp cho thấy hai đầu xương trong khớp sát vào nhau ở chỗ sụn bị mòn, có khi thấy những chồi xương mọc ra bất thường. Khi sụn khớp mòn nhiều, trên phim, khớp lệch lạc thấy rõ (subluxation), mất hình dạng bình thường.
Điểm đáng chú ý là triệu chứng và mức độ tàn tật do bệnh gây nên, nặng hay nhẹ, thường không ăn khớp với phim chụp. Nếu đem 100 người trên 40 tuổi ra chụp phim, theo phim chụp, 90 người sẽ có những thay đổi bất thường ở các khớp nâng đỡ sức nặng cơ thể (lưng dưới, hông, gối, ...), tuy vậy, chỉ 30 người có triệu chứng đau nhức. Đau dữ hay ít, như đã bàn, còn tùy thuộc nhiều yếu tố, đặc biệt những yếu tố tâm lý và xã hội.
Chữa trị
Sự trị liệu nhắm mục đích giảm đau, giúp các khớp duy trì được cơ năng, và hoạt động bình thường.
Những trường hợp bệnh nhẹ, người bệnh chỉ cần được trấn an, chỉ dẫn cách vận động, thu xếp công việc hàng ngày để tránh những hoạt động khiến khớp dễ tổn thương thêm, và thỉnh thoảng uống thuốc giảm đau nếu cần. Với những trường hợp nặng hơn, có thể phải phối hợp nhiều phương pháp chữa trị khác nhau:
1. Vận động:
Bắp thịt và xương, khớp như anh em ruột thịt, phối hợp, giúp đỡ nhau trong lúc hoạt động. Bắp thịt quanh khớp nếu dẻo dai, vững chắc sẽ giúp khớp bớt làm việc, hoặc làm việc hữu hiệu hơn, và cái đau sẽ nhẹ đi.
Các vận động nhẹ nhàng, không đặt nhiều sức nặng trên khớp (low-impact, nonweight-bearing) rất tốt. Bơi lội tuyệt nhất. Không thì những thể dục năng động nhẹ (low-impact aerobics exercises), hoặc các cách tập đặc biệt dùng cho người mang bệnh khớp. Đạp xe đạp đều có thể làm bớt đau khớp gối bị bệnh. Một chuyên viên thấu đáo về việc tập luyện cho người mang bệnh khớp (physical therapist) có thể giúp ta rất nhiều, chỉ dẫn cho ta những cách tập đúng với nhu cầu của tật bệnh ta.
Kiên nhẫn là mẹ thành công. Tập 4-5 lần mỗi tuần, đều như vậy, sau hai tháng, thường sẽ bắt đầu thấy có tiến triển tốt.
2. Đắp, thoa tại chỗ:
- Ấp nhiệt (khăn, bình nước nóng, heating pad, ...) vào khớp đau có thể giúp khớp bớt đau và cứng. Cách giản dị và rẻ tiền là tắm nước ấm vào buổi sáng lúc khớp hay bị cứng. Có vị thấy bớt đau khi dùng nước đá thay vì dùng nhiệt.
- Một loại kem được xem có tác dụng giảm đau, mua bên ngoài không cần toa bác sĩ là capsaicin cream. Thoa kem capsaicin ngày vài lần trên khớp, có khi bạn không cần uống thuốc giảm đau nữa. Kem capsaicin rất hữu hiệu cho các khớp gối và bàn tay. Khi mới dùng, có thể thấy nóng ở chỗ thoa thuốc, song tiếp tục dùng, phản ứng khó chịu này sẽ bớt dần.
3. Tránh bắt khớp bệnh làm việc quá sức:
- Luôn giữ cơ thể trong tư thế thẳng thắn. Khi nghỉ ngơi, học hành, làm việc, lái xe, bạn nên ngồi ghế có lưng tựa thoải mái (thêm tay dựa càng tốt), sát người vào lưng ghế, để lưng ghế nâng đỡ cơ thể bạn cho thẳng, giúp các khớp xương, bắp thịt lưng và cổ không mỏi.
- Trong công việc hàng ngày, bạn xếp đặt công việc và dụng cụ làm việc hợp lý, thuận tầm tay, vừa tầm mắt, hầu khỏi cong cúi nhiều trong lúc làm việc. Đồng thời, ứng dụng tinh thần “chị ngã em nâng”, sử dụng càng nhiều khớp càng tốt trong lúc làm việc. Chẳng hạn, bưng tách cà phê với cả hai tay, nâng bình cà phê bằng cách đỡ cả trên lẫn dưới (một tay đỡ đáy bình, một tay xách quai xách phía trên), ... Với cách này, lực tác động sẽ lan tỏa, không khớp nào phải làm việc quá sức.
Cũng nhớ, khi nhặt vật gì dưới đất, thay vì cúi lưng, bạn cong hai gối trong lúc giữ lưng cho thẳng. Khi bưng bê vật nặng, bạn đưa sát vào người, từ từ đứng lên, trong lúc vẫn thẳng lưng. Nếu vật quá nặng, cách tốt nhất là nhờ thêm người khác giúp sức.
- Người bị bệnh mòn khớp hông hay khớp gối nên tránh đứng, quì, ngồi chồm hổm (squatting) lâu.
- Xe nặng, bánh mau mòn. Nên xuống cân nếu béo mập.
- Giữ sự cân bằng giữa hoạt động và nghỉ ngơi. Những dịp nghỉ ngắn (10-20 phút) trong ngày giúp các khớp nghỉ ngơi sau những lúc hoạt động.
- Người bị bệnh mòn khớp gối hay khớp hông một bên, có thể dùng gậy chống (cầm bằng tay bên không đau) để nâng đỡ cơ thể trong lúc đi lại, giúp các khớp đau đỡ làm việc trong lúc đi lại.
- Giày thể thao loại tốt, hấp thu bớt các sức tác động (impact-absorbing shoes), giúp giảm sức nặng đè trên các khớp ở chân, có thể khiến bớt đau khi đi lại, và có lẽ cũng làm chậm đà tiến triển của căn bệnh. Khổ nỗi, các cụ ta ít quen đi giày thể thao, thích đi dép cao su, dép Nhật cho nhẹ, thoáng, và chỉ... vài đồng một đôi.
3. Chữa trị bằng thuốc:
Thuốc giúp bớt đau. Những trường hợp đau nhẹ hoặc vừa, ta dùng Tylenol là đủ, rẻ, lại an toàn. Không mang bệnh gan hay thận, ta có thể dùng đến 8 viên Tylenol 500 mg mỗi ngày (2 viên ngày 4 lần). Những thuốc giảm đau chứa chất nha phiến như Tylenol số 2, số 3, Vicodin, ... thường không cần thiết, vì tác dụng không dài. Hơn nữa, dùng liên tục, lâu ngày, thuốc có thể sẽ mất tác dụng và gây nghiện.
Các thuốc chống viêm không chứa chất steroid (non-steroid anti-inflammatory drugs, viết tắt NSAID) như Advil, Nuprin, Motrin, ... làm bớt đau và cứng khớp. Dùng Tylenol không bớt đau, ta có thể dùng đến những thuốc loại này. Cái bất lợi là, dùng lâu ngày, chúng có thể gây khó chịu, lở bao tử, chảy máu đường tiêu hóa, và hại cho thận, ... Dùng những thuốc này, ta nên uống lúc bụng no (đang ăn hoặc sau khi ăn). Thấy khó chịu vùng bụng trên, hoặc đi cầu ra phân đen, bạn nên ngưng thuốc và cho bác sĩ biết ngay. Một thuốc giảm đau khác có tên Ultram, cũng giúp nhiều người bớt đau, nhưng không gây những tác dụng độc hại như các thuốc trên. Tất nhiên, nó có thể gây những tác dụng phụ khác.
Gần đây, một số tài liệu đề cập đến việc dùng chất glucosamine và chất chondroitin để chữa bệnh khớp thoái biến, cho rằng hai chất này có khả năng giúp sửa chữa, tái tạo sụn khớp, và bổ khuyết lượng chất nhờn cần có trong khớp. Chúng tác dụng chậm, ít nhất 4 tuần mới công hiệu, và cũng có thể gây một số tác dụng phụ. Sự an toàn và hiệu quả về lâu về dài của thuốc chưa được biết rõ. Thuốc mua bên ngoài không cần toa, bạn có thể thử, song nên cho bác sĩ biết.
Ngoài các thuốc uống, trong nhiều trường hợp, bác sĩ cũng chích thuốc chứa chất steroid hoặc thuốc Synvisc thẳng vào khớp giúp khớp bớt đau.
4. Giải phẫu:
Giải phẫu dùng cho những trường hợp bệnh quá nặng gây đau nhức liên tục, chữa trị hết mức bằng những phương pháp nội thương song không kết quả. Có nhiều phương pháp giải phẫu khác nhau:
- Thay hẳn một khớp: khớp hông, khớp gối nay có thể thay.
- Gọt bớt xương (osteotomy).
- Mài bớt sụn (chondroplasty, abrasion arthroplasty).
- Đưa ống soi vào khớp, dọn dẹp những chỗ bị hư hoại trong khớp.
Sau cùng, ta cũng đừng quên vai trò của tinh thần trong sự chữa trị bệnh khớp thoái biến. Tinh thần và thể xác tuy hai nhưng là một. Trong điều kiện sức khỏe cho phép, nên thường xuyên vận động, hầu giúp cơ thể khỏe mạnh. Thể xác khỏe khoắn, ta thấy yêu đời, yêu người, đỡ căng thẳng tinh thần, và cảm nhận cái đau ít hơn. Một thể xác khỏe mạnh, một tinh thần lạc quan, một lý tưởng hoặc triết lý sống trong sáng, đấy là những viên thuốc bổ của đời sống. Xin biên toa để bạn dùng hàng ngày. (Báo dân quyền)

01/02/2008

Ghép sụn khớp - Hy vọng cho người thoái hóa khớp

Khi tuổi thọ của con người ngày càng tăng thì các bệnh lý liên quan đến lão hóa cũng ngày một nhiều, trong đó thoái hóa khớp là một bệnh điển hình. Theo nhiều nghiên cứu trên thế giới thì thoái hóa khớp là nguyên nhân chính gây tàn tật cho người già, đứng thứ hai sau các bệnh tim mạch.
Trong những năm gần đây, việc chẩn đoán và điều trị bệnh đã có nhiều tiến bộ, có những biện pháp đã được áp dụng rộng rãi trong thực hành lâm sàng như sử dụng các thuốc bảo vệ sụn khớp, thay khớp nhân tạo..., trong đó ghép tế bào sụn thay thế đang trở thành một biện pháp hứa hẹn nhiều triển vọng.
Sụn khớp có vai trò như thế nào?
Sụn khớp là một tổ chức rất đặc biệt, che phủ các đầu xương ở diện khớp làm cho các diện khớp được trơn bóng, giảm lực ma sát khi chúng trượt nên nhau, giúp cho con người có thể đi lại, vận động, sinh hoạt dễ dàng. Sụn có tính chất vừa chắc, cứng nhưng lại dẻo dai, đàn hồi, có tác dụng như một chiếc lò xo làm giảm áp lực tác động lên diện khớp khi vận động. Sụn khớp được cấu tạo từ hai thành phần chính là chất căn bản của sụn và các tế bào sụn. Chất căn bản của sụn có 3 thành phần chính là: nước (chiếm 80%), các sợi collagen (chủ yếu là collagen typ 2) và chất proteoglycan (chiếm 5 - 10%). Tế bào sụn có nhiệm vụ tổng hợp ra chất căn bản của sụn khớp, là những tế bào có tốc độ chuyển hóa thấp. Trong cơ thể sống, các tế bào sụn khớp ở người trưởng thành không có khả năng sinh sản và tái tạo. Một đặc điểm rất đặc biệt là tổ chức sụn khớp không có mạch máu trực tiếp nuôi dưỡng như các tổ chức khác, mà nó được nuôi dưỡng bằng con đường thẩm thấu nhờ tổ chức xương dưới sụn, màng hoạt dịch, dịch khớp.
Từ các đặc điểm cấu tạo và chức năng trên, nên trong thực tế, một khi sụn đã bị tổn thương thì nó rất khó liền. Khi sụn bị tổn thương, do chấn thương hay do bệnh lý làm lộ tổ chức xương dưới sụn khớp, các đầu xương cọ xát lên nhau làm cho khớp bị tổn thương nặng hơn, gây thoái hóa khớp, biểu hiện bằng triệu chứng đau và biến dạng khớp.
Tại sao bị thoái hóa khớp?
Bản chất của thoái hóa khớp là tổn thương sụn khớp, nhưng nguyên nhân thực sự làm tổn thương sụn khớp vẫn còn nhiều bàn luận. Các nhà khoa học cho rằng có hai yếu tố quan trọng và chúng không thể tách rời nhau, đó là: các yếu tố cơ học (lực tác động lên sụn khớp, các vi chấn thương lặp lại nhiều lần, tăng bất thường lực nén trên một đơn vị diện tích của mặt khớp) và các yếu tố sinh học (các tế bào bị già đi theo thời gian, mặt khác khi các yếu tố cơ học tấn công tác động trực tiếp lên mặt sụn đồng thời gây ra sự hoạt hóa và sự giải phóng các enzym, làm thoái biến chất cơ bản, sau đó là phá hủy sụn khớp). Sự thay đổi cấu trúc này dẫn đến việc tạo sụn khớp bị suy giảm, kéo theo sự tích nước tại mô sụn, làm giảm độ chắc và độ đàn hồi của sụn.
Ghép sụn khớp - hướng đi mới cho điều trị thoái hóa khớp
Ghép sụn khớp là một hướng đi mới cho điều trị thoái hóa khớp. Người ta có thể sử dụng hai phương pháp là cấy ghép sụn tự thân (Autograft-lấy chính sụn của bệnh nhân để ghép cho chính họ) và cấy ghép sụn đồng loại (Allograft-lấy sụn của người khác ghép cho bệnh nhân), trong đó cấy ghép tự thân là chủ yếu.
Có hai cách ghép là ghép cả xương và sụn và ghép tế bào sụn.
Ghép cả xương và sụn: Người ta tiến hành lấy một mảnh xương có sụn bao phủ ở vị trí không hoặc ít chịu lực và việc lấy mảnh xương sụn đó không ảnh hưởng gì lớn đến hậu quả vận động của khớp sau này đem ghép trực tiếp vào vị trí sụn bị tổn thương, để tạo hình lại bề mặt trơn nhẵn của sụn khớp. Nhiều nghiên cứu đã công bố những kết quả đáng khích lệ trong những năm đầu, tuy nhiên còn ít các báo cáo về tác dụng lâu dài nhằm dự phòng thoái hóa khớp thứ phát sau chấn thương của phương pháp này. Kỹ thuật này đã bắt đầu được tiến hành ở một số bệnh viện ở nước ta.
Ghép tế bào sụn tự thân: Các tế bào sụn khớp được lấy ra từ sụn khớp, các tế bào này được nuôi cấy trong một môi trường đặc biệt để chúng được nhân lên, rồi nó được ghép vào nơi thiếu hụt sụn khớp.
Kỹ thuật này bao gồm nhiều công đoạn: Đầu tiên là tiến hành nội soi khớp để xác định vị trí sụn bị tổn thương chuẩn bị cho ghép sụn, lấy một mảnh tổ chức sụn ở vùng khớp không bị tổn thương. Các tế bào sụn được nuôi cấy trong một môi trường giàu dinh dưỡng, có các yếu tố tăng trưởng đặc biệt trong vài tuần và các tế bào này được nhân lên nhiều lần về số lượng. Sau đó các tế bào sụn được cấy ghép vào vị trí sụn bị thiếu hụt và phải mất vài tháng, các tế bào sụn này mới chuyển thành tổ chức sụn bình thường. Kỹ thuật này mới được sử dụng ở một số trung tâm lớn ở các nước phát triển.
Gần đây, các nhà khoa học vừa công bố kết quả rất khả quan về khả năng tái tạo của tế bào sụn khớp (trong môi trường nuôi cấy đặc biệt) của bệnh nhân thoái hóa khớp nặng đòi hỏi phải thay khớp, mở ra triển vọng lớn cho hướng điều trị căn bệnh này trong tương lai.
Theo Sức Khoẻ&Đời Sống Ref. CIMSI

25/01/2008

Biến chứng cơ xương khớp của bệnh đái tháo đường

TS. Đào Hùng Hạnh (Bệnh viện Bạch Mai)
(Cập nhật: 11/1/2008)
Đái tháo đường (ĐTĐ) đang gia tăng hằng năm trên thế giới kể cả ở nước phát triển và nước đang phát triển. Kéo theo hậu quả của nó là hàng loạt các biến chứng nguy hiểm, trong đó biến chứng cơ, xương, khớp là những biến chứng điển hình. Không chỉ kiểm soát đường huyết tốt mà người bệnh cần biết đến các biến chứng này để phòng ngừa.
Bệnh lý khớp ở người ĐTĐ
Viêm sụn khớp ở người đái tháo đường
Còn gọi là bệnh lý khớp do nguyên nhân thần kinh, hay bệnh Charcot, đây là thể nặng của thoái hóa khớp, phá hủy khớp nhanh và nhiều, hậu quả của giảm và mất cảm giác tại khớp, gây ra các chấn thương liên tiếp, lặp đi lặp lại nhiều lần. Biểu hiện này hiếm gặp, thường ở bệnh nhân bị bệnh đã lâu. Khám lâm sàng phát hiện các dấu hiệu của bệnh lý thần kinh ngoại biên, da có thể thay đổi như đỏ tím, phù nề, tăng sắc tố, tổ chức phần mềm bao phủ khớp có thể bị viêm, loét, khớp bị lỏng lẻo và biến dạng. Các dấu hiệu Xquang thường nhẹ hơn so với các dấu hiệu lâm sàng. Tùy vào mức độ bệnh mà có thể thấy các tổn thương như bán trật khớp, các mảnh xương, tiêu xương, phản ứng màng xương, biến dạng, dính khớp... Cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh lý khác như nhiễm khuẩn, viêm tắc tĩnh mạch sâu... Điều trị biến chứng này khá phức tạp, chủ yếu là đi giày dép chỉnh hình, chăm sóc, vệ sinh thật tốt kết hợp với kiểm soát tốt đường máu.
Thoái hóa khớp: Người ta chưa chứng minh rõ ràng rằng ĐTĐ là yếu tố nguy cơ của thoái hóa khớp. Tuy nhiên, khoa học đã xác nhận rằng béo phì là yếu tố nguy cơ quan trọng của cả ĐTĐ và thoái hóa khớp. Thoái hóa khớp có thể gặp ở cả khớp lớn và khớp nhỏ.
Biểu hiện ở cơ
Biến chứng bàn chân
Tổn thương viêm loét hoại tử đầu chi do tổn thương vi mạch gây loét, hoại tử, viêm xương, nhiễm khuẩn huyết là một biến chứng rất nặng của bệnh ĐTĐ. Cần phải kiểm soát tốt đường huyết và chăm sóc vệ sinh bàn chân thật tốt, theo dõi màu sắc da cẩn thận, đi giày dép chỉnh hình thích hợp. Bệnh nhân phải đi dép, giày mềm thường xuyên, tránh va đập. Nhồi máu trong cơ là một biến chứng hiếm gặp. Biến chứng này thường tự phát, không có tiền sử chấn thương, hay gặp ở bệnh nhân không được điều trị tốt với nhiều biến chứng mạch máu, thần kinh. Biểu hiện lâm sàng là đau đột ngột, dữ dội và sưng nề vùng cơ bị nhồi máu (thường ở đùi hoặc cẳng chân). Men cơ (CPK) có thể bình thường hoặc tăng nhẹ. Cần chẩn đoán phân biệt với khối u, viêm cơ, áp - xe cơ, cốt tủy viêm, viêm tắc tĩnh mạch sâu. Chụp cộng hưởng từ thấy tăng tín hiệu trên tần số T2. Sinh thiết cơ thấy cơ bị phù nề và hoại tử. Điều trị bằng thuốc giảm đau và nghỉ ngơi, các triệu chứng sẽ hết sau vài tuần.
Teo cơ ĐTĐ do thiếu máu nuôi dưỡng cơ gây nên tình trạng mỏi cơ và đau. Thường gặp ở bệnh nhân trên 50 tuổi, biểu hiện bằng đau, yếu cơ và teo cơ gốc chi như cơ thắt lưng chậu, cơ tứ đầu đùi, cơ khép đùi gây khó khăn khi thực hiện một số động tác như đứng lâu, chuyển từ tư thế ngồi sang đứng hay lên thang gác.
Biểu hiện ở xương
Hội chứng tăng tạo xương lan tỏa nguyên phát (DISH) hay bệnh Forestier, đặc trưng bởi tình trạng loạn sản, canxi hóa dây chằng cột sống kết hợp với hình thành các gai xương. Tuy nhiên khe đĩa đệm, khớp mỏm sau và khớp cùng-chậu đều bình thường. Đoạn cột sống ngực là vùng hay bị tổn thương nhất, và ở bệnh nhân týp 2, béo phì, ngoài ra có thể gặp vôi hóa ở các vị trí khác. Triệu chứng thường gặp là đau, hạn chế vận động, cứng vùng gáy và lưng. Điều trị bằng các thuốc NSAID, giãn cơ, giảm đau và vật lý trị liệu.
Tình trạng loãng xương: thường gặp ở bệnh nhân týp 1, người gầy. Những bệnh nhân týp 2 thường béo nên khối xương ít thay đổi.
Tóm lại: ĐTĐ gây ra rất nhiều biến chứng đối với bộ máy vận động, làm ảnh hưởng đến sinh hoạt và chất lượng cuộc sống. Hầu hết các biến chứng này có thể điều trị được, nhưng chúng thường bị bỏ qua hoặc đánh giá, điều trị không đúng trong thực hành hằng ngày. Nâng cao ý thức và hiểu biết về bệnh, điều trị đúng sẽ giúp cho người bệnh hoàn toàn có thể tự lập được trong công việc và nâng cao chất lượng cuộc sống của họ. (http://www.suckhoedoisong.vn/details.asp?Object=71133788&News_ID=11158122)

Nguy cơ mất chi do gãy cẳng chân

ThS. Trần Quốc An
(Cập nhật: 16/1/2008)
Xương chày hay bị gãy nhất trong các thân xương dài, chiếm tỷ lệ khoảng 18 % các loại gãy xương. Gãy xương cẳng chân dễ bị gãy hở, gãy nhiều mảnh và tổn thương phần mềm nặng. Nếu bị gãy đầu trên xương có các biến chứng mạch máu dẫn đến nguy cơ mất chi; Nếu gãy đầu dưới xương, vì mạch máu nuôi nghèo nàn nên xương chậm liền, hay bị khớp giả.
Xương chày hay bị gãy nhất trong các thân xương dài, chiếm tỷ lệ khoảng 18 % các loại gãy xương. Gãy xương cẳng chân dễ bị gãy hở, gãy nhiều mảnh và tổn thương phần mềm nặng. Nếu bị gãy đầu trên xương có các biến chứng mạch máu dẫn đến nguy cơ mất chi; Nếu gãy đầu dưới xương, vì mạch máu nuôi nghèo nàn nên xương chậm liền, hay bị khớp giả.
Xương cẳng chân có đặc điểm cấu tạo như thế nào?
Hình ảnh gãy xương cẳng chân (xương chày và xương mác) trên phim Xquang.
Cẳng chân gồm hai xương: xương chày và xương mác, xương chày ở phía trong là chính, xương mác nằm ngoài là phụ. Xương chày là xương chịu áp lực chính từ thân người, nên khi chấn thương dễ gãy. Xương mác là xương dài, mảnh, cũng chịu áp lực lớn của trọng lượng cơ thể nên cũng dễ gãy do chấn thương. Xương chày, sát da, đầu trên to, hơi cong ra ngoài; đầu dưới nhỏ, hơi cong vào trong; đặc điểm của thân xương chày 2/3 trên lăng trụ tam giác, 3 mặt (trước ngoài - trong và sau), 1/3 dưới hình tròn, giao điểm là điểm yếu của xương. Mạch máu nuôi xương chày rất nghèo, càng xuống đầu dưới càng nghèo, nên gãy khó liền. Các cơ cẳng chân phân bố không đều, mặt trong cẳng chân không có cơ che phủ, xương chày nằm ngay dưới da. Mặt ngoài và mặt sau có nhiều cơ che phủ. Vì thế khi gãy 2 xương cẳng chân thường có di lệch gập góc ra ngoài và ra sau; đầu gãy thường chọc thủng da ở mặt trước trong. Lớp da vùng cẳng chân sát xương, kém đàn hồi, nên khi gãy xương, da dễ bị bầm giập, hoại tử.
Nguyên nhân nào làm gãy xương cẳng chân?
Do chấn thương trực tiếp: Tổn thương phần mềm là vết thương hở, bẩn; đường gãy thường ngang ở nơi bị va chạm, hai xương gãy ngang mức nhau, tổn thương phức tạp; Do chấn thương gián tiếp: thường do ngã, cẳng chân bị bẻ hoặc xoay làm gãy xương. Hay gãy chéo xoắn nơi xương bị yếu (chỗ nối 1/3 giữa và 1/3 dưới) hai xương gãy có thể cùng hoặc không ngang mức. Đường gãy: ngang, chéo vát, nhiều mảnh rời, 3 đoạn... Có thể có di lệch chồng, di lệch mở góc ra ngoài và ra sau, di lệch sang bên và di lệch xoay.
Biểu hiện khi gãy xương cẳng chân: Ngay sau chấn thương có điểm đau chói tại vùng tổn thương, mất vận động hoàn toàn, biến dạng chi, đo độ dài tuyệt đối và tương đối chi gãy ngắn hơn bên lành, trục chi lệch khi gãy có di lệch bàn chân đổ ngoài; lạo xạo xương gãy, cử động bất thường, có thể có mất hay giảm mạch mu chân. Chụp Xquang 2 tư thế thẳng và nghiêng, chụp toàn bộ cẳng chân lấy cả 2 khớp gối và khớp cổ chân thấy hình ảnh gãy xương.
Những biến chứng khi gãy xương cẳng chân: Biến chứng sớm có thể gặp là sốc, nhất là gãy xương hở; tổn thương mạch máu, thần kinh; chèn ép khoang; rối loạn dinh dưỡng; nhiễm khuẩn, nguy hiểm nhất là hoại thư và hoại thư sinh hơi. Ở giai đoạn muộn có thể gặp các biến chứng như: nhiễm khuẩn phổi, tiết niệu, loét điểm tỳ, chậm liền xương, khớp giả, can lệch, rối loạn dinh dưỡng muộn, teo cơ, hạn chế vận động khớp cổ chân, khớp gối...
Các phương pháp điều trị
Bảo tồn: bó bột ngay nếu gãy không hoặc ít di lệch; Gãy kiểu cành tươi ở trẻ em; bó bột có rạch dọc từ 1/3 trên đùi tới bàn chân, gối gấp nhẹ 7-10 độ. Để bột 5-7 ngày hết nề thì quấn băng tăng cường và để bột 8-10 tuần. Với trường hợp gãy ngang, sau 2 tuần bó bột cho tập đi. Gãy chéo xoắn thì sau 4 tuần mới tập đứng và đi có tỳ nén; nắn chỉnh trên khung nắn Bohler rồi bó bột khi gãy kín 2 xương cẳng chân có đường gãy ngang hay chéo vát. Trường hợp đến muộn, chi sưng nề lớn, cần xuyên đinh kéo liên tục qua xương gót, sau 7-10 ngày mới nắn chỉnh trên khung Bohler rồi bó bột.
Phẫu thuật, áp dụng với các trường hợp: gãy hở, gãy kín có tổn thương mạch máu và thần kinh và biến chứng chèn ép khoang, gãy mà nắn chỉnh không đạt yêu cầu, gãy không vững, di lệch lớn. Kết hợp xương bên trong: Đóng đinh nội tủy Kuntscher, đinh Rush. Đóng đinh xuôi dòng. Đinh nội tủy có chốt: loại đinh hay dùng là TWX, SIGN. Ưu điểm của phương pháp là không mở vào ổ gãy, ít nguy cơ nhiễm khuẩn tạo điều kiện cho liền xương thuận lợi hơn. Kết hợp xương bằng nẹp vít: gãy mở từ độ IIIA; gãy mở đến muộn; gãy kín có tổn thương phần mềm xấu. Ưu điểm là cố định ổ gãy vững chắc, phục hồi hình thể giải phẫu, tập vận động sớm. Nhược điểm: do phải lóc cốt mạc rộng nên ảnh hưởng tới nguồn nuôi dưỡng của ổ gãy. Khoan nhiều lỗ trên xương lành để bắt vít nên có nguy cơ nhiễm khuẩn cao. Kết hợp xương bằng khung cố định ngoài với các trường hợp: gãy hở từ độ IIIA trở đi; gãy hở đến muộn; gãy kín tình trạng phần mềm xấu; gãy hở nhiễm khuẩn. Loại khung cố định ngoài hay dùng: cọc ép ren ngược chiều, khung của F.E.S.S.A, khung của Ilizarov. (http://www.suckhoedoisong.vn/details.asp?Object=71133788&news_ID=16158420)

Đời Sống-Gia Đình (VietBao VN)

Vui Cười (VietBao VN)

SƯU TẦM ĐỊA CHỈ ĐIỆN THOẠI TƯ VẤN SỨC KHOẺ:

Tư vấn miễn phí:

* Điện thoại của đường dây tư vấn hỗ trợ trẻ em 18001567 hoặc chương trình Cửa sổ tình yêu (04) 3 8262625 để được tư vấn miễn phí.
* Phòng tư vấn sức khỏe sinh sản Bệnh viện Từ Dũ TPHCM với các chương trình tư vấn chăm sóc sức khỏe phụ nữ trước, trong và sau sinh miễn phí dành cho các ông bố, bà mẹ: điện thoại (08) 3 8395117 (số nội bộ 368).
* Phòng tư vấn sức khỏe cộng đồng tại Bình Định: (có tư vấn về phòng chống HIV/AIDS): Địa chỉ liên hệ với Trung tâm Tư vấn sức khỏe cộng đồng: 419 Trần Hưng Đạo, Qui Nhơn vào tất cả các ngày trong tuần (trừ chủ nhật). ĐT: (056): 3 811 466. Trung tâm tư vấn HIV/AIDS miễn phí tại: + Phòng tư vấn sức khỏe cộng đồng - Bệnh viện Lao: ĐT (056) 3 748 922; + Phòng khám số 3 (936- 938 Trần Hưng Đạo, Qui Nhơn: ĐT (056): 3 792 476.
* Phòng tư vấn sức khỏe miển phí tại Trung tâm Y tế Quận 1 TP.HCM với trên 20 bác sĩ thuộc các chuyên khoa tham gia tham vấn sức khỏe trực tiếp hoặc qua điện thoại số (08) 3 8206544.
* Chương trình VTV1 "Sức khoẻ là vàng", phát sóng vào 18h ngày Chủ nhật và phát lại vào 15h Thứ 4 tuần kế tiếp: Số điện thoại nóng của chương trình là 1900561225.
* Chương trình VTV2 “Sức khoẻ cho mọi người”, phát sóng vào 17h30 ngày Thứ 3 hàng tuần và phát lại vào 12h trưa hôm sau.
* Trung tâm tư vấn ung thư Can Hope (Singapore) tại Hà Nội: 04. 3 7472729 / 04. 3 7472730
* Khám và tư vấn miễn phí các bệnh lý thoái hóa và thoát vị đĩa đệm cột sống là chương trình do BV Nguyễn Tri Phương (468 Nguyễn Trãi, Q.5, TP.HCM) thực hiện vào lúc 13g30 thứ sáu hằng tuần.
Bệnh nhân có nhu cầu đăng ký qua số ĐT: 39234332 (xin số 895).


Khác:

* Bệnh nhân nam giới có nhu cầu khám và tư vấn các bệnh lý Nam khoa, vui lòng đăng ký tại BVĐH Y Dược TP.HCM, 215 Hồng Bàng, P11, Q5.:
1. Phòng khám Nam khoa. Điện thoại: (08) 3 8554269 (số 265) 2. Bộ phận chăm sóc khách hàng. Điện thoại: (08) 3 4051010- 3 4051212

*Ttư vấn “Bệnh loét dạ dày-tá tràng” liên hệ Phòng khám tiêu hóa - bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM, xin vui lòng đăng ký qua số điện thoại: 08. 3 4051010, 3 4051212, bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM, 215 Hồng Bàng, P.11, Q.5, bộ phận Chăm sóc khách hàng.

* Câu lạc bộ phòng chống Hen Hà nội, Hội Hen DU & MDLS Việt nam 04.3 9438933

* Các địa chỉ khác tại: http://shelove.biz/thong-tin-tu-van

* Tham khảo chữa rắn cắn: Địa chỉ liên hệ của ông Tần: Lê Văn Tần - xóm 6 xã Thanh Long, huyện Thanh Chương, Nghệ An. Điện thoại: 0972.901.089.

Người theo dõi