Google

09/10/2007

Ðau Lưng (Back Pain)

THỨ HAI 5 THÁNG TÁM 2002
Các hoạt động hàng ngày, ít tập thể dục và không cẩn thận trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi đều làm chúng ta bị đau lưng.
Trung bình trong 10 người có 8 người bị đau lưng vài lần trong đời họ, phần lớn xảy ra khoảng 30 đến 40 tuổi. Ða số khi bị đau lưng do các bắp cơ (muscles) và dây chằng (ligaments) căng giản quá mức, nhưng sẽ thuyên giảm từ từ.
Những người dễ bị đau lưng. Phụ nữ đang mang thai hoặc có con nhỏ: các khớp xương của phần dưới cột sống bị lỏng do các kích thích tố gây ra. Các bà còn phải ẵm em bé hoặc nâng các dụng cụ như xe đẩy, tả lót trẻ em vv. Các công nhân làm việc nâng hàng hoặc cuối lên cuối xuống thường xuyên. Các công nhân ngồi với tư thế khom lưng trong thời gian làm việc. Những người có cột sống lưng dài và nhỏ, cổ cao hoặc lưng cong.
Tự chăm sóc khi bị đau lưng.
Khi quí vị bị đau lưng: Lăn bình nước lạnh hoặc bọc nước đá trên chỗ đau trong 15 phút. Nếu không hết có thể dùng bình nước nóng đặt lên chỗ đau. Lưu ý không nên dùng nước nóng ngay ngày đầu bị trặt lưng. Nằm thẳng trên nệm cứng hoặc trên sàn nhà trong 24 tiếng. Giữ cho lưng thẳng và đầu gối được nâng hơi cao. Uống vài loại thuốc giảm đau thí dụ như Nurofen. Tạm thời tránh làm công việc nặng, ngồi lâu, cuối lên hoặc xuống, và lái xe. Từ từ tăng các hoạt động làm giản các bắp thịt nơi cột sống. Sau khi bình phục nên tiếp tục tập các động tác được chỉ dẫn bởi các chuyên viên để giữ cho cột sống được dẻo dai.
Phần quan trọng.
Trị bịnh càng sớm thời gian lành bịnh sẽ được rút ngắn lại. Nên đi gặp bác sĩ nếu: Ðau nhức không giảm bớt. Nơi đau lan đến hai chân, hông hoặc háng. Nóng lạnh hoặc bị ban (rash). Khó khăn khi tiêu tiểu.
Thay đổi vài lối sống hàng ngày như sau có thể giảm đau lưng. Nếu quí vị ngủ trên giường nệm có lò xo, nên đặt một miếng ván bên dưới nệm. Cẩn thận những động tác làm giản hoặc ảnh hưởng đến cột sống. Giữ tư thế thẳng khi đứng hoặc ngồi. Khi nâng vật nặng, giữ lưng thẳng, cong đầu gối xuống và giữ vật nặng gần thân người hơn. Tập thể thao làm tăng sự dẻo dai của cột sống. Mang giày thấp gót. Tránh ho hoặc hắt hơi khi đang cuối xuống. Tránh ngồi trên xe quá lâu. Không nên dùng thuốc giảm đau quá lượng được chỉ dẫn bởi bác sĩ hoặc dược sĩ và không nên dùng trong thời gian dài.
Hội Chuyên Gia Việt Nam NSW/AUST

TỰ CHỮA ĐAU LƯNG KHÔNG DÙNG THUỐC

Thứ Sáu, 24/03/2006 - 10:23 PM
- Đau lưng cấp tính là một triệu chứng thường gặp, nếu không được điều trị triệt để có thể chuyển thành mãn tính rất khó chữa, thậm chí gây thoái hoá cột sống, thoát vị đĩa đệm, trượt thân đốt sống...
(Ảnh minh hoạ - Cobis).
Trên 80% trường hợp đau lưng cấp có thể tự điều trị khỏi sau 3 ngày bằng các cách đơn giản mà không cần dùng thuốc hay phải sử dụng các phương pháp điều trị chuyên sâu.

Nguyên nhân gây đau lưng cấp

- Thời tiết thay đổi đột ngột là nguyên nhân khiến các cơ, dây chằng, mạch máu và thần kinh vùng lưng bị co giãn quá mức. Người bệnh có cảm giác mệt mỏi, đau mỏi lan toả hai bên cột sống lưng. Nếu được chườm nóng lạnh hoặc xoa bóp, cảm giác đau sẽ bớt dần và khỏi sau một ngày.

- Làm việc trong một tư thế cố định cột sống, khối cơ lưng và dây chằng sẽ ít hoạt động gây ứ đọng chất trung gian hoá học trong cơ, đồng thời mạch máu kém lưu thông nên tình trạng nuôi dưỡng khu vực cột sống không được đảm bảo, cũng gây đau lưng cấp.

Người bệnh có cảm giác đau nhức âm ỉ dọc cột sống, các động tác cúi, ngửa, xoay hơi khó khăn. Nằm nghỉ ngơi sau 3 ngày bệnh sẽ khỏi. Có thể chườm nóng lạnh, xoa bóp hoặc kéo giãn trong vòng 24 giờ đầu, tình trạng đau sẽ đỡ.

- Vận động hoặc làm việc trong một tư thế cột sống sai lệch, gây trượt nhẹ các khớp cột sống và đĩa đệm, cũng gây nên đau lưng cấp. Người bệnh có cảm giác đau nhức khu trú tại một vị trí, sờ nắn có cảm giác đau. Nếu tổn thương ở mức nhẹ, kéo giãn cột sống đau sẽ khỏi sau 3 ngày. Có thể xoa bóp, chườm nóng lạnh, nằm nghỉ ngơi, dấu hiệu đau sẽ đỡ.

- Khi cột sống phải chịu sự đè nén của trọng lượng cơ thể hay vật nặng, các đĩa đệm bị đè nén quá mức cũng gây đau lưng cấp. Nếu kéo giãn cột sống, dấu hiệu đau sẽ khỏi sau 3 ngày.

- Đi giầy hoặc dép cao gót làm cho trọng lực cơ thể dồn về phía trước, đốt sống lưng L4 và L5 dễ bị trượt ra trước, gây chèn ép mạch máu và thần kinh, cũng có thể gây đau lưng cấp. Nếu tổn thương nhẹ, kéo giãn cột sống có thể khỏi sau 3 ngày.

- Một số tổn thương thực thể gây đau lưng cấp như, thoát vị đĩa đệm, trượt đốt sống, gai đôi cột sống, thoái hoá cột sống, ung thư, lao... cũng gây đau lưng cấp. Áp dụng các biện pháp điều trị như kéo giãn cột sống, nằm nghỉ ngơi, chờm, xoa bóp, dấu hiệu đau không giảm hoặc chỉ giảm nhẹ tức thì, khi ấy cần phải đến khám bác sĩ để được chẩn đoán nguyên nhân và điều trị đúng đắn.


Các phương pháp tự điều trị đau lưng cấp

1. Nằm nghỉ ngơi: Tư thế nằm ngửa thả lỏng người thoải mái trên giường cứng, không nằm giường có đệm mềm để tránh đè ép vào mạch máu và cơ. Đảm bảo nguyên tắc giữ đường cong sinh lý cột sống, đầu, vai, mông, gót chân chạm giường.

Dùng một gối lót dưới cột sống cổ, chú ý không được kê gối trên đầu. Một gối mỏng kê dưới lưng. Một gối kê dưới kheo. Sau 30 phút, nhẹ nhàng xoay nghiêng người để thay đổi tư thế. Khi dậy, xoay người nằm nghiêng để dậy từ từ. Phương pháp có thể kéo dài tối đa trong 3 ngày, nếu không khỏi thì cần phải đi khám bác sĩ chuyên khoa.

2. Kéo giãn cột sống: Tốt nhất là dùng áo treo cột sống. Có thể đu hai tay trên xà, hoặc treo người ngược kiểu tư thế tập xà trong vòng 5 – 10 phút. Phương pháp này áp dụng trong 2 ngày, nếu không đỡ thì phải chuyển phương pháp khác hoặc khám chuyên khoa.

3. Xoa bóp: Dùng tay xoa, bóp, day, đấm, chặt nhẹ nhàng hai bên cột sống khoảng 30 phút. Có thể sử dụng các động tác kéo rút như trong mát xa, nhưng phải nắm được kỹ thuật và đảm bảo an toàn cho người bệnh.

4. Chườm nóng: Dùng khăn tẩm nước nóng vừa phải đắp lên cột sống lưng trong vòng 30 phút để làm giãn cơ, dây chăng, mạch máu. Phương pháp này chỉ áp dụng trong 24 giờ đầu tiên.

5. Chườm lạnh: Dùng túi đựng nước đá chườm lên cột sống lưng trong vòng 30 phút, có tác dụng co mạch, làm giảm đau tức thì. Phương pháp chỉ áp dụng khi đau trong vòng 24 tiếng.
BS Trần Văn Phúc (Bệnh viện Xanh Pôn)(Theo Dân trí)

VAI TRÒ CỦA CÁC BIỆN PHÁP KHÔNG DÙNG THUỐC(*) TRONG ĐIỀU TRỊ CÁC BỆNH XƯƠNG - KHỚP?

Các biện pháp điều trị không dùng thuốc bao gồm: giáo dục sức khỏe, tập luyện (thể chất, tinh thần), ăn uống, sinh hoạt. Trong điều trị các bệnh xương khớp mạn tính các biện pháp điều trị không dùng thuốc luôn luôn được coi trọng và cần phối hợp chặt chẽ với các điều trị bằng thuốc. Các biện pháp này động viên được tính chủ động và tích cực của bản thân mỗi người bệnh, góp phần làm tăng hiệu quả điều trị, làm giảm tối đa các tổn thương thực thể ở xương và khớp, bảo vệ được chức năng vận động của khớp, bảo vệ sức khỏe chung đồng thời bảo đảm cho người bệnh một cuộc sống tâm-sinh lý bình thường, có ích cho bản thân, gia đình và xã hội.
Các biện pháp không dùng thuốc luôn luôn được xếp trong mục điều trị hỗ trợ, có vai trò quan trọng, không thể thiếu được trong điều trị các bệnh xương-khớp.
● Điều trị triệu chứng nhằm làm giảm đau, giảm sưng và cải thiện vận động của khớp
● Điều trị bệnh nhằm làm ngưng hoặc làm chậm sự tiến triển của bệnh.
● Điều trị hỗ trợ nhằm cải thiện vận động của khớp, chống teo cơ, cứng khớp, loãng xương, duy trì và bảo vệ chức năng của khớp, sửa chữa các di chứng của bệnh, cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh và hỗ trợ cho các thuốc điều trị.
● Điều trị các biến chứng của các thuốc điều trị.
Các điều trị này luôn luôn cần thiết, không thể thay thế cho nhau và không thể tách rời nhau. Điều trị triệu chứng, Điều trị bệnh và Điều trị các biến chứng của điều trị chủ yều dựa vào thuốc còn Điều trị hỗ trợ chủ yếu dựa vào các biện pháp không dùng thuốc. Giải quyết đầy đủ các mục tiêu nêu trên là cách điều trị toàn diện, góp phần tạo nên kết quả của điều trị, giúp người bệnh duy trì một cuộc sống bình thường, không bị tách biệt khỏi gia đình và xã hội.
Sau đây là những biện pháp điều trị không dùng thuốc cơ bản áp dụng cho các bệnh xương - khớp mạn tính (Đây chỉ là những nét chung nhất, có tính nguyên tắc. Đối với từng loại bệnh khớp, từng bệnh nhân cụ thể các chi tiết sẽ có thay đổi để phù hợp với từng bệnh lý, tuổi và sức khỏe của mỗi người bệnh. (Để có các biện pháp chính xác nên nhờ bác sỹ tư vấn )

(*) Các biện pháp không dùng thuốc: Danh từ “thuốc” trong bài viết này chỉ đề cập đến các thuốc của Y học hiện đại, không bao gồm thuốc Y học dân tộc.

1. Giáo dục sức khỏe:
Đây được coi là biện pháp quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định đối với việc điều trị các bệnh xương - khớp mạn tính. Đây là nhiệm vụ của mọi nhân viên y tế, của toàn ngành y tế và các tổ chức văn hoá - xã hội vì mục tiêu Sức khỏe cho mọi người. Mọi người cần quan tâm hơn nữa tới các thông tin cần thiết trên các phương tiện thông tin (sách, báo, tạp chí, truyền thanh, truyền hình...) về nhóm bệnh phổ biến mang tính xã hội này. Qua qua đó nhận thức được tầm quan trọng và tỷ lệ mắc của các bệnh xương - khớp, diễn biến của bệnh, tác hại của bệnh, tác hại có thể có của các thuốc điều trị, tác hại của việc điều trị tùy tiện, không khoa học, khả năng của Y học có thể đem lại cho người bệnh và vai trò không thể thiếu của việc luyện tập, việc tự mình có ý thức bảo vệ và tăng cường sức khỏe, bảo vệ và tăng cường các chức năng sinh lý của các khớp, không quá lạm dụng và ỉ lại vào thuốc .

2. Chế độ nghỉ ngơi, sinh hoạt:
● Khi bị viêm cấp (biểu hiện: Sưng, nóng, đỏ, đau), các khớp cần được nghỉ ngơi hoàn toàn ở tư thế cơ năng.
● Tư thế cơ năng của mỗi khớp là tư thế giúp khớp của người bệnh ít bị tàn phế nhất nếu chẳng may khớp có bị dính hay bị cứng. Tư thế cơ năng của mỗi khớp không giống nhau.
- Tư thế cơ năng của khớp gối là duỗi thẳng chân, tuyệt đối không kê, độn ở khoeo. Với tư thế này nếu có bị cứng hay dính khớp gối bệnh nhân vẫn có thế đi lại được.
- Tư thế cơ năng của khớp khuỷu là gấp tay 900, ở tư thế này nếu có bị dính hay cứng khớp người bệnh vẫn có thể sử dụng 2 bàn tay để tự phục vụ bản thân như xúc cơm, cầm ly, chén, chải tóc...
● Sau giai đoạn viêm cấp thời gian nghỉ ngơi của người bệnh chỉ cần 8 đến 10 giờ mỗi ngày, 8 giờ cho ngủ buổi tối, 1 - 2 giờ cho ngủ trưa. Khi ngủ cũng cố gắng để các khớp ở tư thế cơ năng. Cần cố gắng tạo việc làm phù hợp cho mỗi người bệnh, tránh sự nhàn rỗi, tránh nằm ì trên giường nhiều giờ. Điều này sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến tâm lý và sức khỏe của người bệnh.
● Chế độ sinh hoạt: ngoài giai đoạn cấp tính người bệnh cần cố gắng duy trì một chế độ sinh hoạt bình thường (tránh các hoạt động quá sức cho khớp, tránh các động tác hoặc tư thế làm khớp co hay giãn quá mức), không quá gắng sức, không dầm mưa, không để lạnh đột ngột, không thức quá khuya, có sự cân bằng giữa làm việc và nghỉ ngơi, cân bằng về tâm lý và sinh lý. Không khí gia đình, quan hệ vợ chồng, công việc hàng ngày, sự động viên, tạo điều kiện, sự quan tâm và hỗ trợ đúng mức của người thân là những ảnh hưởng rất tích cực trong điều trị.

3. Chế độ ăn uống
- Với các bệnh mãn tính tiêu biểu như: Viêm khớp dạng thấp, Viêm cột sống dính khớp, Thoái hoá khớp, Loãng xương
Cần một chế độ ăn giảm muối, tránh dùng rượu, tránh dùng các chất kích thích thần kinh, tăng cường Protid (từ nguồn động vật và thực vật), tăng cường calcium, tăng cường các vitamin nhóm B, vitamin C, vitamin D, vitamin E, tăng cường rau xanh và các chất xơ, uống nhiều nước…, tránh suy dinh dưỡng, tránh béo phì.
Lý do:
● Đa số các thuốc kháng viêm giảm đau dùng để điều trị triệu chứng các bệnh xương, khớp đều có tác dụng giữ muối (ít hoặc nhiều), đều tăng tác dụng phụ nếu người bệnh sử dụng rượu. Các thuốc kích thích thần kinh thường gây làm co cứng các cơ gây đau và hạn chế vận động.
● Rau xanh là nguồn cung cấp vitamine tự nhiên, ăn đủ các chất xơ, uống nhiều nước giúp cho tiêu hoá, tăng cường trao đổi chất và tránh táo bón.
● Bệnh nhân bệnh khớp thường bị loãng xương (rất cần Calcium, vitamine D và Protid) vì bản thân các bệnh về khớp, vì người bệnh ít hoặc không dám vận động do đau, vì tuổi tác và vì sử dụng một số thuốc trong điều trị (đặc biệt các thuốc nhóm corticosteroid)… Nên sử dụng sữa và các chế phẩm của sữa (yaourt, sữa tách bơ…), Protid từ cá (dễ tiêu hoá, ít Cholesterol, có acid béo nhóm Omega 3)
● Các quá trình viêm, các thuốc kháng viêm, tuổi tác, khả năng hoạt động, tình trạng sức khỏe… đều ảnh hưởng tới các quá trình chuyển hoá của người bệnh, đặc biệt chuyển hoá Protid.
- Với bệnh Gout (bệnh Thống phong), một bệnh khớp do rối loạn chuyển hoá, người bệnh cần có những chế độ ăn uống riêng như :
● Hạn chế Protid (dưới 50 g protein mỗi ngày – tương đương 200 g thịt nạc), tránh các thức ăn chứa nhiều nhân purin như tim, gan, thận, óc, hột vịt lộn, cá chích, cá đối, cá sardin…
● Tránh các yếu tố nguy cơ như : không uống rượu, không hút thuốc lá, không ăn uống quá độ, không sử dụng thuốc lợi tiểu, aspirin, corticosteroids…
● Hạn chế muối, đường, mỡ (nếu có kèm Cao huyết áp, Rối loạn lipid máu, Tiểu đường, béo phì…)
● Uống nhiều nước, nên uống các loại nước khoáng có gas (bicarbonate) để tăng thải acid uric qua đường tiểu.

4. Tập vận động các khớp
- Người bệnh cần tập vận động càng sớm càng tốt (ngay sau giai đoạn viêm cấp), tập từ từ, tăng dần, từ tập thụ động (lúc đầu), chuyển dần sang tập chủ động, xen kẽ thời gian tập và thời gian nghỉ để các khớp thích nghi dần, vận động ở mọi tư thế, mọi thời gian. Đây là biện pháp hữu hiệu nhất để chống teo cơ, chống cứng khớp, chống dính khớp, bảo vệ và duy trì chức năng vận động của khớp.
- Có 2 cách tập, tập thụ động và tập chủ động
● Tập thụ động (Khi người bệnh chưa tự tập được thì nhân viên y tế và/hoặc người thân tập cho người bệnh)
● Tập chủ động (Người bệnh tự tập). Tập chủ động có tác dụng tốt hơn hẳn tập thụ động vì vậy người bệnh cần tập chủ động càng sớm càng tốt.
- Tập theo các vận động sinh lý của các khớp, tập nhiều lần, thời gian tập trải đều trong ngày, tránh tập quá lâu một lần rồi bỏ bẵng cả ngày, cường độ tập phải tăng dần tùy tình trạng sức khỏe và sự thích nghi của cơ thể mỗi người. Khi tập nếu thấy đau, cần nghỉ hoặc giảm cường độ, hết đau lại tập tiếp. Các khớp chiụ trọng lượng của cơ thể như khớp gối, khớp cột sống, khớp háng, khớp cổ chân... cần được tập chủ yếu ở tư thế nằm hoặc ngồi (không chiụ sức nặng của cơ thể). Các thầy thuốc điều trị sẽ trực tiếp hướng dẫn cách tập cho từng bệnh và cho từng khớp cụ thể.
- Tập vận động các khớp cần được duy trì liên tục và phải trở thành một thói quen trong sinh hoạt hàng ngày của người bệnh.
- Đối với bệnh Viêm cột sống dính khớp, các cơ thường bị co cứng, các dây chằng thường bị vôi hoá làm hạn chế sự giãn của cột sống và lồng ngực nên cần cho bệnh nhân vận động ở dưới nước (bơi, tắm nước khoáng…).
- Đối với bệnh Thoái hóa khớp gối, khi vận động nên tránh làm tăng chịu lực lên khớp gối, tránh các tư thế gấp gối quá mức (ngồi xổm, ngồi bó gối…). Đi bộ ngắn, đường bằng phẳng, hạn chế lên xuống cầu thang, đi tay không, không mang xách gì nặng. Tập khớp gối chủ yếu tư thế ngồi ghế, nằm, đạp xe đạp (khớp gối không phải chịu lực).

5. Vật lý trị liệu

Là các biện pháp dùng sức nóng, dùng tia hồng ngoại, dùng sóng ngắn hoặc trao đổi ion ... để góp phần làm giảm đau, giảm sưng, giảm co cơ... Vật lý trị trị liệu luôn luôn được kết hợp với vận động trị liệu.

6. Phục hồi chức năng
Bao gồm vận động trị liệu, vật lý trị liệu và chỉnh hình là các biện pháp mà các nhân viên y tế sử dụng để hướng dẫn, trợ giúp cho người bệnh hoặc can thiệp nhằm khắc phục các di chứng của bệnh, phục hồi các chức năng của khớp, duy trì tối đa những hoạt động cần thiết trong sinh hoạt hàng ngày.

7. Châm cứu, bấm huyện, xoa bóp và các thuốc dùng ngoài
- Châm cứu theo lý luận của Y học dân tộc nhằm làm cho khí huyết lưu thông để giảm đau (theo quan niệm Thống bất thông - Thông bất thống). Theo nghiên cứu của Y học hiện đại, châm cứu có tác dụng ức chế phản xạ đau và kích thích cơ thể tiết ra một loại morphin nội sinh gọi là endorphin, có tác dụng giảm đau. Châm cứu được sử dụng để điều trị hỗ trợ, giảm đau, giảm viêm, giãn cơ, kích thích các thần kinh ngoại vi ... từ đó tăng cường khả năng vận động cho người bệnh.
- Bấm huyệt có tác dụng làm giãn các cơ bị co cứng do phản ứng viêm.
- Xoa bóp làm máu lưu thông, giãn cơ, giảm đau, chống teo cơ cứng khớp
- Các thuốc đắp và xoa ngoài: thường là một số vị thuốc có vị nóng, ấm và tinh dầu, có tác dụng hỗ trợ làm giãn mạch, giảm xung huyết, giảm sưng, giảm đau, giãn cơ... đặc biệt ở các phần mềm quanh khớp.

8. Thuốc y học dân tộc (bao gồm cả thuốc Đông y và Nam y)
Được coi là điều trị hỗ trợ, được sử dụng sau giai đoạn cấp tính nhằm nâng cao sức khỏe người bệnh, giảm đau, giảm viêm nhẹ, củng cố và duy trì kết quả điều trị.
Cần hết sức tránh các loại thuốc “gia truyền”, thuốc tễ, “thuốc dân tộc”, thuốc không rõ nguồn gốc… Hiện tại trên thị trường còn lưu hành nhiều loại thuốc nêu trên nhưng được pha trộn tân dược: dexamethason, ibuprofen, phenylbutazone… (thuốc giả).

9. Tâm lý trị liệu
Là các biện pháp về mặt tâm lý - xã hội giúp người bệnh giải tỏa được sự lo lắng, buồn phiền, bi quan, chán nản, gạt bỏ những suy nghĩ tiêu cực, tin tưởng ở chuyên môn, tích cực vận động, tập luyện, hợp tác tốt với thầy thuốc. Ngoaiø gia đình và bè bạn, người bệnh còn cần được các tổ chức xã hội và đoàn thể giúp đỡ, hướng dẫn, động viên và tạo điều kiện để người bệnh có thể có những việc làm phù hợp, có những thu nhập ổn định. Công việc sẽ giúp người bệnh cảm thấy tự tin, thấy mình có ích cho gia đình và xã hội, có mục tiêu để phấn đấu, vươn lên, tạo niềm vui, tránh sự cô đơn, mặc cảm, ỉ lại và phụ thuộc.

Kết luận:
Trong việc điều trị các bệnh xương - khớp mãn tính, các biện pháp điều trị không dùng thuốc tuy không thay thế được các điều trị bằng thuốc nhưng có vai trò rất quan trọng, không thể thiếu trong bất cứ giai đoạn nào của điều trị, có tác dụng tăng cường, duy trì và củng cố kết quả điều trị, giảm bớt số lượng thuốc phải sử dụng. Các biện pháp này chủ yếu dựa vào bản thân người bệnh, nhằm động viên tính tích cực, chủ động, kiên trì, bền bỉ, lạc quan để sống chung với bệnh và chiến thắng bệnh tật. Đây là một phần việc rất quan trọng mà không ai có thể làm thay cho người bệnh.
(Hồng - Sưu tầm)

Những tấm lòng Việt kiều vì người khuyết tật

Thứ Ba, 17/04/2007, 17:50
Trong những năm qua, không chỉ các cơ quan chức năng, mà nhiều người khuyết tật trong nước cũng đã quen với những cái tên như VNAH, SAP- VN, những tổ chức từ thiện do Việt kiều sáng lập để giúp người tàn tật hoà nhập với cuộc sống.
Sau hơn 17 năm thành lập, đến nay, Hội trợ giúp người khuyết tật Việt Nam (VNAH) do ông Trần Văn Ca (Việt kiều Mỹ) khởi xướng, đã cung cấp miễn phí trên 70.000 dụng cụ chỉnh hình và trên 13.000 xe lăn, xe lắc cho người tàn tật Việt Nam.
VNAH cũng đã hỗ trợ sửa chữa, cải tạo và cung cấp thiết bị cho 12 trung tâm dạy nghề và dịch vụ việc làm dành cho người tàn tật; tài trợ xây dựng hơn 20 trường học có khả năng tiếp nhận trẻ em tàn tật.
Không chỉ về vật chất, VNAH còn hợp tác với một số bộ ngành trong nước đẩy mạnh việc thực thi Pháp lệnh về về người tàn tật. Đáng kể là việc giúp Bộ Xây dựng soạn thảo và ban hành bộ tiêu chuẩn xây dựng thiết kế công trình đảm bảo để người tàn tật có thể tiếp cận sử dụng; hỗ trợ Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội thành lập văn phòng điều phối về người tàn tật.
Nhờ có uy tín từ những hoạt động hiệu quả, VNAH đã nhận được các khoản quyên góp khá thường xuyên từ quỹ NIPPON (Nhật Bản), Hội cựu chiến binh Mỹ, Cơ quan Viện trợ Phát triển Hoa Kỳ (USAID) và nhiều người Việt tại Hoa Kỳ.
Một địa chỉ khác cũng khá quen thuộc với người khuyết tật Việt Nam là Hội từ thiện SAP- VN do tiến sĩ Huỳnh Phước Đương (Việt kiều Mỹ) sáng lập. Bản thân ông là một người khuyết tật do trúng mìn trong chiến tranh khi còn ở Việt Nam.
Thành lập năm 1992, bằng các chương trình phẫu thuật cho trẻ khuyết tật, xây trường học cho vùng sâu cùng xa, tặng xe lăn cho người khuyết tật, sau một thời gian hoạt động, hội SAP- VN đã kết nối được những tấm lòng hảo tâm trong cộng đồng người Việt tại Mỹ trong việc giúp đỡ người khuyết tật, nghèo khó ở trong nước.
Nói về hội từ thiện của mình, Tiến sĩ Đương cho biết, những người đến với SAP trước hết là những người có tấm lòng, yêu thích công việc từ thiện nên mới gắn bó được lâu dài. Họ làm việc tự nguyện, không được trả lương.
Còn với cộng đồng người Việt ở Berlin (Đức), năm nay là năm thứ bảy họ chứng kiến những việc làm âm thầm đầy tình nghĩa dành cho người tật nguyền ở Việt Nam của Chương trình xe lăn Berlin do anh Nguyễn Văn Kha và chị Lan Hương, cùng là người Việt Nam sống ở Đức, sáng lập và điều hành.
Kể từ 50 chiếc xe đầu tiên được trao tặng năm 2000, với tổng trị giá 5.000 USD, đến nay, chương trình đã trao tặng được gần 900 chiếc xe lăn cho người khuyết tật nhiều tỉnh, thành phố như Đắk Lắk, Lâm Đồng, Đồng Nai, Cao Bằng, An Giang, Yên Bái.
Theo TTXVN

Người gây quỹ từ thiện triệu “đô”

Chủ Nhật, 22/04/2007, 15:02
TPO - Với 16 năm làm từ thiện tại Việt Nam, Hội trợ giúp người tàn tật Việt Nam (VNAH) do ông Trần Văn Ca, Việt kiều Mỹ sáng lập đã cung cấp miễn phí hơn 100.000 chân tay giả, xe lăn cho người tàn tật ở Việt Nam.
Chỉ riêng năm 2003, ông Ca đã quyên góp được 1,7 triệu USD để mua chân tay giả và xe lăn cho những người tàn tật. Thế nhưng, ông Ca luôn từ chối nói về mình với lý do: “Những công việc tôi làm mới chỉ là hạt cát trong đại dương”.
Làm nhiều, nói ít, có lẽ, đó là tính cách của Trần Văn Ca. Trong một thời gian dài hoạt động tại Việt Nam, hầu như chẳng mấy người biết tới công việc thầm lặng của ông Ca và VNAH.
Những chuyến trở về Việt Nam của ông cứ mau dần, và mỗi lần trở lại đều có những món “quà”. Khi là những chiếc chân tay giả, xe lăn, xe lắc, khi là đoàn bác sỹ khám chữa bệnh miễn phí cho những người nghèo, nguời tàn tật.
Gần đây nhất, tháng 3/2007, ông đưa đoàn bác sỹ tình nguyện Mỹ - Việt tới khám chữa bệnh tại các tỉnh phía Nam. Tháng 4/2007, ông trở lại Việt Nam với chuyến đi tặng chân tay giả và xe lăn ở Thái Bình.
Cho tới nay, hoạt động của Hội đã vươn tới những vùng sâu, vùng xa của Việt Nam, từ Thái Nguyên, Cao Bằng tới các tỉnh ĐBSCL. “Quy mô chương trình của chúng tôi nhỏ, nhưng thiết thực và được Chính phủ Việt Nam đánh giá cao” - Ông Ca phấn khởi cho biết.
Trở về
Năm 2003, tờ Washington Post đã có bài viết về ông Trần Văn Ca với tựa đề: Đi để trở về, trong đó ca ngợi ông là một nhà hảo tâm. Ban đầu, chỉ là một ít tiền dành dụm được, gửi về nước cho bố mẹ ở Việt Nam coi như là bổn phận của một người con.
Hơn 30 năm sau ngày sang Mỹ, sau những nhọc nhằn thuở ban đầu, Trần Văn Ca đã trở thành người chủ của một nhà hàng sang trọng rộng 5 ha tại Great Falls.
Sau một chuyến trở về Việt Nam và cuộc gặp gỡ với một thương binh cụt cả hai chân lê trên hè phố, ông mới ngộ ra một điều rằng, thật quá ích kỷ nếu chỉ biết giúp đỡ cho mỗi gia đình mình.
Từ bỏ công việc kinh doanh nhà hàng đầy triển vọng, ông thành lập Hội Hỗ trợ người tàn tật Việt Nam tại Virginia (Mỹ) năm 1991 với 10.000 USD. Số tiền này dùng để mua xe lăn cho người tàn tật gửi về nước.
Cho tới nay, Hội của ông đã xây dựng được hai xưởng sản xuất chân tay giả ngay tại Việt Nam vừa tiết kiệm được chi phí vừa tạo công ăn việc làm cho người tàn tật.
Đợt tặng xe lăn gần đây nhất cho người tàn tật VN của VNAH
Tờ Reader’s Digest cũng cho biết, Trần Văn Ca đã từ bỏ 5 nhà hàng ăn nhanh kiểu Mexico tên là Taco Amingo và ngôi biệt thự có tới 8 phòng ngủ trị giá hàng triệu đô la ở Mỹ để trở về Việt Nam làm từ thiện.
Đến nay VNAH đã nhận tài trợ từ Cơ quan Phát triển quốc tế của Mỹ (USAID) tổng cộng 5,6 triệu USD cho các dự án hỗ trợ người tàn tật ở Việt Nam.
Tháng 11/2006, Quốc hội Mỹ đồng ý chuẩn chi khoản hỗ trợ trị giá 400.000 USD cho VNAH để xây dựng một trung tâm phục hồi sức khỏe tại Đà Nẵng. Dự án này nằm trong khuôn khổ chương trình Các bệnh viện và trường học Mỹ ở nước ngoài (ASHA).

Trăn trở “đầu ra” cho người khuyết tật
Ông Ca nhận ra một điều, nếu chỉ đào tạo nghề cho người tàn tật thì sẽ là một lãng phí lớn nếu không biết cách tạo “đầu ra” cho họ. Mô hình liên kết giữa đào tạo nghề và việc làm đang được VNAH triển khai thí điểm tại Đông Anh (Hà Nội), Đà Lạt (Lâm Đồng).
Ông Ca cho biết, cần phải chủ động tìm đến các liên doanh, doanh nghiệp, các cơ quan sử dụng lao động đề nghị họ giúp đỡ bằng cách mình đào tạo nghề giúp họ, họ nhận giúp học viên cho mình.
Thật bất ngờ, chương trình thí điểm đã có dấu hiệu khả quan. Dự án đào tạo nghề tại Đà Lạt của VNAH đã nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của Cty Gia Hùng. Không những Cty hứa sẽ nhận những người khuyết tật vào làm việc, mà trong quá trình đào tạo nghề, họ còn cử chuyên viên tới giúp đỡ cả chuyên môn lẫn kỹ thuật như tặng trang thiết bị may, phụ liệu may...
“Đây là dự án hỗn hợp đầu vào, đầu ra khép kín đảm bảo hiệu quả, tránh lãng phí và cũng khuyến khích được người tàn tật theo học. Trên 90% học viên đã có công ăn việc làm ổn định sau khi kết thúc khóa học” - Ông Ca cho biết.
Trong 16 năm qua, VNAH đã phẫu thuật, chỉnh hình cho hàng ngàn trẻ em tàn tật, hỗ trợ dạy nghề và tạo việc làm cho hơn 2.000 thanh thiếu niên nghèo, tàn tật, nạn nhân chất độc da cam, giúp hơn 6.000 trẻ em nghèo, mồ côi, trẻ đường phố và gia đình các em hồi gia, học tập, học nghề, xóa đói giảm nghèo, xây dựng hơn 35 trường học tại các vùng nông thôn và miền núi nghèo, tổ chức các chuyến công tác khám chữa bệnh miễn phí với y, bác sỹ và tình nguyện viên từ Hoa Kỳ và các dự án tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS.
VNAH là tổ chức phi chính phủ của người Việt ở nước ngoài đầu tiên được cấp giấy phép thành lập văn phòng đại diện tại Hà Nội.
Lan Anh (Báo Tiền phong)

06/10/2007

Nghề “hoàn thiện con người”

18:57', 25/5/ 2007 (GMT+7)
Ở Trung tâm Chỉnh hình và Phục hồi chức năng Quy Nhơn có một phân xưởng mang chức năng và nhiệm vụ khá đặc biệt - sản xuất và lắp ráp dụng cụ chỉnh hình phục vụ bệnh nhân tàn tật. Mỗi sản phẩm là một hình dáng, kích cỡ riêng và người làm ra sản phẩm cũng mang những nét rất riêng của nghề nghiệp.

H1. Niềm vui của người nhà bệnh nhân khi con, cháu bị tàn tật sắp đi lại như những người bình thường nhờ được lắp ráp những dụng cụ chỉnh hình.

* Sản phẩm không có mẫu
Làm chân, tay giả, nẹp chỉnh hình, giày chỉnh hình là những khâu cuối cùng của quá trình chỉnh hình và phục hồi chức năng cho người tàn tật. Sau khi được mổ và thực hiện các phương pháp vật lý trị liệu tại khoa Y học phục hồi, bệnh nhân được đưa xuống phân xưởng Sản xuất và lắp ráp dụng cụ chỉnh hình để thực hiện các công đoạn hoàn thiện cuối cùng. Tại đây, nếu cần làm chân, tay giả, người bệnh được các kỹ thuật viên của xưởng khám và đo kích thước của mỏm cụt, bó bột tạo mẫu, gọt giũa theo đúng hình dáng của từng mỏm cụt, sau đó làm khuôn nhựa, lắp khuôn nhựa với phần chân gỗ có sẵn và dóng dựng cho bệnh nhân tập đi. Nếu việc đi lại của bệnh nhân nhẹ nhàng, không đau, các kỹ thuật viên mới bắt đầu làm hoàn chỉnh sản phẩm.
Một kỹ thuật viên cho biết: “Từ lúc được lắp chân, tay giả cho đến lúc bệnh nhân sử dụng quen với “một phần thân thể” mới của mình là tùy theo bệnh lý của từng người. Thông thường thì những bệnh nhân cũ (đã sử dụng chân tay giả) thích nghi nhanh hơn. Những bệnh nhân có sức khỏe yếu, mỏm cụt xấu sẽ phải rất lâu mới quen dần và sử dụng tốt chân, tay giả”.
Để rút ngắn thời gian làm chân, tay giả, xưởng có thể mua những bán thành phẩm (như bàn tay, bàn chân, cánh tay, ống chân từ đầu gối trở xuống…) được sản xuất hàng loạt về và tiếp tục làm các công đoạn hoàn thiện quan trọng bằng phương pháp thủ công. Ông Nguyễn Quy- Quản đốc phân xưởng - cho biết: “Do tính chất của mỗi người bệnh là khác nhau nên mỗi sản phẩm của công nhân làm ra đều khác nhau, không sản phẩm nào giống sản phẩm nào nên không thể tạo mẫu sẵn và sản xuất hàng loạt được. Mỗi một sản phẩm là sự kết tinh kinh nghiệm, tay nghề và tâm huyết của công nhân”.
Kỹ thuật làm chân, tay giả ngày nay cũng đã tiến bộ rất nhiều so với trước để không chỉ đảm bảo độ bền, chắc chắn, đi lại thuận tiện mà cả tính thẩm mỹ nữa. Trước đây, người ta thường sử dụng nguyên, vật liệu bằng gỗ, nhôm để làm chân, tay giả. Những vật liệu này có hạn chế là nặng, không chuẩn dưới tác động của khí hậu, thời tiết. Ngày nay, việc sử dụng công nghệ làm chân, tay giả bằng nhựa loãng và nhựa tấm thích hợp với mọi điều kiện khí hậu, dễ làm, độ chính xác cao, vỏ nhựa vừa khít với mỏm cụt tạo dáng đi thoải mái, không đau, không cấn... cho người tàn tật.
Ngoài ra, sản xuất giày, nẹp cho những người bị liệt cũng đòi hỏi rất cao kỹ thuật của từng công nhân. Nẹp được mua về làm bằng sắt, nhôm, nhựa…và có kích thước lớn, bé khác nhau. Tùy thuộc vào tình trạng bệnh lý của người bệnh như liệt bẩm sinh, liệt vì bệnh tật, khoèo hay bàn chân co quắp..., công nhân phải chú ý đến những đặc điểm khác biệt đó để làm nẹp và giày cho phù hợp.
* Nếu không yêu nghề, tôi đã bỏ việc
Phân xưởng sản xuất và lắp ráp dụng cụ chỉnh hình chỉ có 8 công nhân kỹ thuật chỉnh hình. Do đặc điểm khác biệt của nghề nghiệp nên hầu hết số công nhân trong xưởng đều được đào tạo từ một trường (cả nước hiện nay chỉ có khoảng 100 công nhân kỹ thuật chỉnh hình) và một vài người đã làm nghề từ trước giải phóng. Do vậy, tại phân xưởng, tuy chỉ có 8 công nhân nhưng đã có đến 2 cặp vợ chồng học cùng trường, làm cùng nghề, cùng về làm việc tại trung tâm một ngày. Họ đã có thời gian gắn bó với trung tâm từ 26 đến trên 30 năm nên đã cùng trải qua tất cả buồn, vui, khó khăn của nghề nghiệp. Chị Đặng Thị Xuyến, 46 tuổi, đã có 26 năm trong nghề, tâm sự: “Đối với nghề này, người ngoài nhìn vào thì thấy có vẻ đơn giản nhưng nó lại không hề đơn giản chút nào. Nếu không có tay nghề, kinh nghiệm, công nhân rất khó thực hiện được những sản phẩm sao cho vừa khớp với các mỏm cụt, vừa tạo được dáng đi cho bệnh nhân đẹp, dễ coi”.
Chị Trần Thị Hải Yến và “ông xã” là Nguyễn Thế Toàn cũng học cùng trường, cùng lớp, cùng vào trung tâm một ngày và cùng công việc làm chân, tay giả, tâm sự: “Với những trường hợp người bệnh không thể đến Trung tâm được, chúng tôi phải đến các tỉnh lấy mẫu về làm cho họ. Những mỏm cụt khó, người bệnh không toại nguyện, đi lại không như ý muốn, tôi trăn trở mãi, cả trong giấc ngủ…”.
Nghề của các kỹ thuật viên chỉnh hình đòi hỏi họ phải thường xuyên tiếp xúc với những người mà thân thể không còn nguyên vẹn. Nhiều người trong số đó mang mặc cảm, tự ti, khó chịu và cả chút “công thần” của những người đã có công lao đối với đất nước. Đối với ông Quy - người đã có 40 năm gắn bó với nghề - thì không thể nhớ hết đã làm được bao nhiêu chân, tay giả cho bệnh nhân. Ông tâm sự: “Làm cho bệnh nhân từ chỗ không đi được đến đi được là hạnh phúc của người làm thợ. Nếu không yêu nghề thì tôi đã bỏ nghề rồi!
* Và những trăn trở với nghề, với nghiệp

H2. Kỹ thuật viên phân xưởng sản xuất và lắp ráp dụng cụ chỉnh hình đang làm chân giả.
Để hoàn thiện một sản phẩm chân, tay giả phải mất từ 14-16 giờ (chân dưới) và từ 22-26 giờ (chân trên đầu gối). Nhưng trên thực tế, công nhân phải rút ngắn thời gian hơn để kịp thời phục vụ người bệnh.
Sản xuất chân, tay giả là một ngành đặc biệt, phải tuỳ thuộc vào mức độ thương tích và chức năng vận động của người tàn tật cụ thể, cho nên không thể sản xuất hàng loạt. Vì thế chi phí để sản xuất là rất lớn. Một chân trên, tay trên bằng nhựa có giá hơn 1 triệu đồng. Hơn nữa, chân, tay giả không thể sử dụng vĩnh viễn như chân tay thật mà trung bình cứ 5 năm lại phải thay mới, và việc đó kéo dài trong suốt cuộc đời của người bệnh.
Sau giải phóng, công nhân của xưởng chủ yếu làm chân tay giả cho thương binh nên khối lượng công việc khá lớn. Sau 5 năm, các thương binh lại được đến trung tâm làm lại chân, tay giả một lần theo chế độ của Nhà nước. Tuy nhiên, hiện nay, do cơ chế khoán bằng tiền trực tiếp vào chế độ cho thương binh nhưng phần đông thương binh có đời sống không mấy khá giả, nên họ thường cố sử dụng chân cũ đã “quá đát” hoặc bó cao su để đi, không muốn bỏ tiền ra làm mới. Đối tượng người tàn tật trong xã hội cũng rất nhiều nhưng đa số thường rất nghèo, đời sống khó khăn…, họ chỉ có thể làm chân, tay giả khi được các tổ chức nhân đạo hỗ trợ về kinh phí. Ông Trần Mỹ - Phó Giám đốc Trung tâm Chỉnh hình và Phục hồi chức năng Quy Nhơn - cho biết: “Trong quý I năm 2007, xưởng làm được gần 700 dụng cụ chỉnh hình thì đã có trên 500 dụng cụ được tài trợ bởi các tổ chức nhân đạo như VNAH (Hội trợ giúp người tàn tật Việt Nam), ICRC (Ủy ban Chữ thập đỏ quốc tế)…
Những người chẳng may bị mất một cánh tay, một bàn chân, chẳng may sinh ra thân thể không được lành lặn như những người bình thường là những người đã và đang phải chịu rất nhiều khó khăn và thiệt thòi. Mong sao, những cá nhân, tổ chức nhân đạo trong và ngoài nước luôn quan tâm và tạo cho họ những cơ hội để được sống tốt hơn. Và, cả những người thợ đang làm cái nghề thật đặc biệt- nghề hoàn thiện cho thân thể con người - có thêm cơ hội để thể hiện tâm huyết nghề nghiệp và tình cảm với đời, với người.
Ngọc Quỳnh (Báo Bình Định http://www.baobinhdinh.com.vn/Butkyphongsu/2007/5/43358/)

Tổng kết thi đua Ngành Lao động - Thương binh và Xã hội năm 2006

Chiều 12/1/2007, trong khuôn khổ chương trình Hội nghị Triển khai nhiệm vụ về công tác Lao động - Thương binh và Xã hội năm 2007 đã diễn ra Lễ tổng kết công tác thi đua toàn ngành năm 2006. Bộ trưởng Nguyễn Thị Hằng và các đồng chí Thứ trưởng Huỳnh Thị Nhân, Đàm Hữu Đắc, Bùi Hồng Lĩnh đã trao tặng Cờ thi đua xuất sắc và bằng khen của Bộ trưởng cho các tập thể đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và dẫn đầu phong trào thi đua của ngành năm 2006.
Cờ thi đua xuất sắc năm 2006 được trao tặng cho 22 tập thể, trong đó có 6 đơn vị thuộc và trực thuộc Bộ, bao gồm: Tổng cục Dạy nghề, Cục Quản lý Lao động ngoài nước, Tạp chí Lao động và Xã hội, Trung tâm Điều dưỡng Thương binh Kim Bảng, Trung tâm Chỉnh hình và Phục hồi chức năng Quy Nhơn và Đại học Sư phạm kỹ thuật Vinh; 13 Sở LĐ-TBXH các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Phú Thọ, Hoà Bình, Bắc Giang, Hải Phòng, Bắc Ninh, Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Nam, Đăk Lắk, Bình Dương, TP. Hồ Chí Minh và Bến Tre; 3 đơn vị thuộc khối các Tập đoàn, Tổng công ty bao gồm: Phòng Tổ chức Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam, Ban Lao động - Tiền lương, Tập đoàn Cao su và Ban tổ chức - lao động Tổng công ty Xi măng Việt Nam. Bằng khen hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được trao cho 50 tập thể bao gồm 14 đơn vị trực thuộc Bộ, 27 Sở LĐ-TBXH các địa phương và 9 đơn vị thuộc các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước. Cùng với đó, Bộ LĐ-TBXH cũng đã đề nghị Chính phủ tặng Cờ thi đua xuất sắc năm 2006 cho 2 đơn vị và đề nghị Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen cho 5 đơn vị khác./. Tuấn Cường ( Tạp chí LĐXH)

Định hướng phát triển công tác ngành Lao động - Thương binh và Xã hội đến năm 2010

Từ nay đến năm 2010, đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới với nhiều thuận lợi, đồng thời cũng đứng trước những thách thức, đòi hỏi cao của sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó, định hướng công tác ngành Lao động-Thương binh và Xã hội phải được thực hiện trên cơ sở các quan điểm, chủ trương lớn của Nghị quyết Đại hội X của Đảng là: a. Về quan điểm: Được khái quát như sau: - Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện trong kinh tế, chính trị và các vấn đề xã hội thể hiện trên 3 mặt: quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm; tạo điều kiện để mọi người có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình.
- Sử dụng nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động và hiệu quả là chủ yếu; kết hợp phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực, phân phối thông qua phúc lợi xã hội và chính sách xã hội; thực hiện điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi của người lao động. - Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xoá đói giảm nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển và mức sống giữa các vùng, các dân tộc và các tầng lớp dân cư; giảm nghèo bền vững và gắn với phát triển. - Phát huy truyền thống tốt đẹp của Dân tộc: Uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa, nhân hậu thuỷ chung đối với người có công với đất nước; - Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hoá; trong đó xác định rõ vai trò của Nhà nước, vai trò của cộng đồng, các doanh nghiệp, các tổ chức, của cá nhân và vai trò hợp tác quốc tế để giải quyết các vấn đề xã hội. b, Về chủ trương: Cần quán triệt với các nội dung cơ bản sau: - Phát triển con người và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó, vấn đề quan trọng bậc nhất là phải đào tạo nên đội ngũ lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, làm việc có năng suất và hiệu quả cao, có ý thức vươn lên về khoa học và công nghệ; đặc biệt là phải có đủ công nhân lành nghề, các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý và doanh nhân giỏi, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. - Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp và đáp ứng nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong đó, quan trọng nhất là giảm lao động nông nghiệp, tăng tỷ lệ lao động công nghiệp và xây dựng, dịch vụ. - Tạo môi trường và điều kiện để phát triển thị trường lao động thông thoáng và thống nhất, không bị chia cắt về hành chính, cạnh tranh lành mạnh, tạo được nhiều việc làm, đồng thời có sự quản lý, kiểm soát và điều tiết của nhà nước. - Giải quyết tốt các vấn đề xã hội đi đôi với phát triển kinh tế và ngang tầm với phát triển kinh tế là vấn đề then chốt, có ý nghĩa chiến lược, đảm bảo định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường, nhất là vấn đề việc làm, giảm thất nghiệp, ưu đãi người có công, xoá đói giảm nghèo, bảo trợ xã hội, phòng chống tệ nạn xã hội… - Góp phần gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng trong chính sách lao động và xã hội. Để quán triệt chủ trương này, cần tập trung vào các vấn đề cơ bản như: Thực hiện công bằng trong quan hệ phân phối; An toàn việc làm; Khuyến khích làm giàu đồng thời tích cực giảm nghèo; Thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu an sinh xã hội và thúc đẩy hòa nhập xã hội nhóm yếu thế, nhất là nhóm có nguy cơ cao bị loại trừ xã hội (người già không nơi nương tựa, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người tàn tật, người nhiễm HIV/AIDS…). Quán triệt quan điểm, chủ trươngdo Đại hội X của Đảng đề ra, toàn ngành Lao động - Thương binh và Xã hội với quyết tâm cao tiếp tục đổi mới, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ sau: Mục tiêu tổng quát của kế hoạch đến năm 2010 về lao động - thương binh và xã hội là tạo bước phát triển mới về các lĩnh vực lao động - thương binh và xã hội; tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc về việc làm (cả xuất khẩu lao động), dạy nghề, tạo thu nhập, nâng cao mức sống; chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ, người có công; giảm nghèo vững chắc và gắn với phát triển; chặn đứng và đẩy lùi các tệ nạn xã hội; góp phần giữ vững ổn định chính trị và an toàn xã hội. Những chỉ tiêu cụ thể gồm: - Tạo việc làm trong nước cho khoảng 6-6,4 triệu lao động, bình quân hàng năm giải quyết việc làm cho khoảng 1,6 triệu lao động. - Giảm tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị dưới 5%; tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp 50%, công nghiệp xây dựng 23-24%; dịch vụ 26-27%. - Tăng quy mô dạy nghề hàng năm 20%; mỗi năm dạy nghề cho khoảng 2 triệu người, trong đó, trình độ trung cấp, cao đẳng nghề chiến 25-30%; đến năm 2010 tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 32%. - Tăng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc bình quân 9-10%/năm, đạt 60% tổng số lao động làm việc có quan hệ lao động; mở rộng các hình thức BHXH tự nguyện và tăng đối tượng tham gia các loại hình bảo hiểm xã hội, đạt 20-25% lực lượng lao động cả nước vào năm 2010 (từ 10-12 triệu người). - Trên 80% người lao động làm các nghề, công việc có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn vệ sinh; giảm 5% tần suất tai nạn lao động trong các ngành nghề có nguy cơ mất an toàn cao; hàng năm giảm 10% tỷ lệ lao động mắc mới bệnh nghề nghiệp đến năm 2010. - 100% hộ gia đình người có công đang hưởng trợ cấp hàng tháng có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình người dân nơi cư trú. - Giảm tỷ lệ hộ nghèo 3%/năm, đến năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo giảm còn khoảng dưới 10%. - 70% những người thuộc diện chính sách xã hội được hưởng trợ cấp; 90% được hỗ trợ về y tế - phục hồi chức năng; những người có khả năng lao động được hỗ trợ giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm, hoà nhập cộng đồng vào năm 2010. - Cơ bản những người nghiện ma tuý, người bán dâm được cai nghiện, chữa trị, dạy nghề, tạo việc làm với các hình thức phù hợp; trong đó, khoảng 80% người nghiện ma tuý, người bán dâm có hồ sơ quản lý được cai nghiện, chữa trị, dạy nghề trong các cơ sở Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội; giảm tỷ lệ tái phạm 8-10%/năm. Để đạt được các mục tiêu trên, toàn ngành phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ: * Tạo nhiều việc làm, đi đôi với nâng cao chất lượng việc làm, tăng năng suất lao động, tăng thu nhập cho người lao động: - Thực hiện có hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm, chương trình xuất khẩu lao động, chương trình an toàn và vệ sinh lao động giai đoạn 2006 - 2010, đề án cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội. - Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư trong và ngoài nước mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động, trước hết cho phát triển các vùng kinh tế trọng điểm ở 3 miền , phát triển mạnh khu vực dân doanh, phấn đấu đến năm 2010 cả nước có khoảng 500 nghìn doanh nghiệp nhỏ và vừa để thu hút 15 triệu lao động. - Tạo điều kiện cho mọi người tự tạo việc làm và thu hút thêm lao động xã hội, nhất là kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại. - Phát triển thị trường hiện có và mở rộng thị trường mới về xuất khẩu lao động; đổi mới căn bản công tác đào tạo huấn luyện nguồn lao động, đảm bảo lao động đi làm việc ở nước ngoài có đủ điều kiện về sức khoẻ, tay nghề, ngoại ngữ, tác phong công nghiệp, ý thức chấp hành kỷ luật lao động…; quy hoạch và phát triển đa dạng các hình thức, các thành phần kinh tế tham gia đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài. * Về dạy nghề, phát triển nhanh về quy mô đi đôi với nâng cao hiệu quả dạy nghề theo 3 cấp trình độ; chuyển mạnh từ dạy nghề trình độ thấp sang dạy nghề trình độ cao, dài hạn; gắn kế hoạch đào tạo và sử dụng lao động với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phát triển doanh nghiệp, vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế mở và cho xuất khẩu lao động. Chú trọng dạy nghề cho lao động nông thôn, cho vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, nhất là nông nghiệp, nông thôn. * Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách ưu đãi người có công với cách mạng - Tiếp tục thực hiện đề án cải cách chế độ trợ cấp ưu đãi người có công. - Mở rộng phong trào "đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn" nhằm huy động mọi nguồn lực trong xã hội, góp phần nâng cao mức sống gia đình người có công bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình dân cư nơi cư trú. * Tạo điều kiện cho người nghèo, xã nghèo phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập, thông qua các chính sách trợ giúp về phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, nhất là thuỷ lợi, đất đai, tín dụng, khuyến nông, dạy nghề. Tăng khả năng tiếp cận của người nghèo tới các dịch vụ xã hội, nhất là dịch vụ xã hội cơ bản (y tế, giáo dục, hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở, đất ở, dinh dưỡng, kế hoạch hoá gia đình, nước sạch sinh hoạt…). - Tập trung nguồn lực cho các vùng trọng điểm, vùng có tỷ lệ nghèo cao (Tây Bắc, Tây Nam, Tây Nguyên, vùng đồng bào dân tộc ít người); tập trung đầu tư và có chính sách khuyến khích xã, hộ vượt nghèo, vươn lên làm giàu. - Giảm nguy cơ rủi ro nhóm yếu thế (người già, trẻ mồ côi, người tàn tật, phụ nữ…) do thiên tai và do cơ chế thị trường trên cơ sở hỗ trợ dạy nghề, tạo việc làm cho người yếu thế còn khả năng lao động, giúp họ vươn lên tự lập, hoà nhập vào cộng đồng và mở rộng hệ thống an sinh xã hội theo hướng xã hội hoá. * Kiểm soát chặt chẽ, tiến tới đẩy lùi gia tăng người nghiện ma tuý, tệ nạn mại dâm; khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển các mô hình, các hình thức cai nghiện phục hồi gắn với dạy nghề, tạo việc làm, giảm tái nghiện và hoà nhập cộng đồng sau cai. * Mở rộng hợp tác quốc tế về lao động - thương binh và xã hội Thực hiện đúng các cam kết quốc tế về lĩnh vực lao động - thương binh và xã hội trong hội nhập, trước hết là về các tiêu chuẩn lao động, xuất khẩu lao động… khi tham gia các tổ chức quốc tế : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN), Khu vực Mởu dịch tự do ASEAN (AFTA) , Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái bình dương (APEC), Tổ chức thương mại thế giới (WTO). * Tăng cường hệ thống tổ chức - cán bộ làm công tác lao động - thương binh và xã hội tại các Bộ, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Tiếp tục cải cách hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước của Ngành để nâng cao hiệu quả quản lý, chống phiền hà, chống tham nhũng và thực hiện quyền dân chủ của nhân dân. Để thực hiện được những nhiệm vụ nêu trên, cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau: Một là, tăng cường công tác quản lý Nhà nước về lĩnh vực Lao động-Thương binh và Xã hội; xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật; tổ chức thực hiện và tăng cường phân cấp mạnh cho địa phương kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật lao động. Hai là, tiếp tục thể chế hoá thành cơ chế, chính sách, luật pháp về lao động - thương binh và xã hội cho phù hợp với giai đoạn đẩy mạnh Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước và hội nhập, góp phần ngày càng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam. Xây dựng Luật Tiền lương tối thiểu, Luật việc làm, Luật người tàn tật, Luật sửa đổi Bộ luật lao động. Tiến hành xây dựng chiến lược cho thời kỳ 2001 – 2020 theo từng lĩnh vực của ngành, nhất là chiến lược việc làm, dạy nghề, phát triển thị trường lao động, an sinh xã hội ... Ba là, về đầu tư và ngân sách: Tập trung các nguồn đầu tư của Nhà nước nói riêng, đầu tư của toàn xã hội nói chung vào các mục tiêu ưu tiên (theo lĩnh vực, nghành, địa bàn) nhằm tạo sự chuyển biến rõ nét về giải quyết việc làm, dạy nghề, xoá đói giảm nghèo, chăm sóc người có công, phòng chống tệ nạn xã hội. Bốn là, hoàn thiện và đổi mới phương thức quản lý, hoạt động của hệ thống sự nghiệp theo hướng đơn vị tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc cung cấp dịch vụ lĩnh vực lao động - thương binh và xã hội, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của lĩnh vực lao động - thương binh và xã hội. Năm là, thực hiện có hiệu quả các Chương trình mục tiêu quốc gia: Giải quyết việc làm, phát triển nguồn nhân lực, đào tạo nghề, xuất khẩu lao động và chuyên gia; An toàn vệ sinh lao động; Giảm nghèo; hỗ trợ các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn; Nâng cao mức sống của các đối tượng người có công với nước; Phòng chống tệ nạn xã hội. Sáu là, đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường phân cấp, nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương trong quản lý, điều hành các lĩnh vực lao động - thương binh và xã hội; kiện toàn tổ chức bộ máy; nâng cao năng lực cán bộ theo hướng vừa chuyên môn hoá và chuyên nghiệp vừa hiểu biết rộng các công việc của Nghành; tăng cường thanh tra, kiểm tra; đưa công nghệ thông tin vào hệ thống điều hành trong nội bộ của Bộ và nối với cơ quan lao động - thương binh và xã hội của các tỉnh, thành phố. Bảy là, mở rộng hợp tác quốc tế về lao động và xã hội trên tất cả các phương diện. Ngành Lao động-Thương binh và Xã hội cần tổ chức nghiên cứu, dự báo tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến các lĩnh vực của ngành. Đề xuất các giải pháp để tận dụng lợi thế, hạn chế tác động tiêu cực. Tám là, đổi mới và nâng cao chất lượng công tác thông tin, tuyên truyền; chú trọng thông tin các nội dung thiết thực đối với từng lĩnh vực hoạt động của ngành. Nhiệm vụ đến năm 2010 là hết sức nặng nề, đòi hỏi cán bộ, công chức, viên chức toàn ngành phấn đấu, bám sát mục tiêu, nhiệm vụ và phối hợp với các ngành, các cấp thực hiện.
Nguyễn Thị Kim Ngân Uỷ viên Trung ương Đảng - Bộ trưởng Bộ Lao động-TBXH

Chuyên gia về chỉnh hình và phục hồi chức năng của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tham gia cứu chữa nạn nhân sập cầu Cần Thơ

Sau khi sập cầu Cần Thơ, tối 27/9 đoàn chuyên gia, bác sĩ và kỹ thuật viên Viện Khoa học Chỉnh hình - Phục hồi chức năng ( Bộ LĐ-TBXH) do Viện trưởng, TS.BS. Nguyễn Tiến Lý cùng phương tiện kỹ thuật đã kịp thời có mặt để tham gia cứu chữa nạn nhân. Đoàn đã phối hợp cùng các bác sĩ Viện Quân y 121 kiểm tra tình hình chấn thương, tổ chức hội chẩn và tham gia phẫu thuật cho các nạn nhân. Trong đó có 5 trường hợp đã được đoàn sử dụng một số phương pháp kỹ thuật mới để xử lý như: kết hợp xương chày bằng đinh nội tuỷ có chốt...
Tiếp đó, chuyên gia, bác sĩ của Viện Khoa học Chỉnh hình - Phục hồi chức năng cùng Viện Quân y 121 và Trung tâm Chỉnh hình - Phục hồi chức năng TP. Cần Thơ tổ chức khám và đưa ra các phác đồ điều trị cho toàn bộ nạn nhân, bệnh nhân đang chữa trị tại Khoa Ngoại Chấn thương của Viện. Theo Đại tá, Giám đốc Viện Quân Y 121 Trần Thanh Quang thì ngoài việc cứu chữa kịp thời, hiệu quả cho các nạn nhân thì đây cũng là dịp để đội ngũ các chuyên gia, bác sĩ, kỹ thuật viên cùng chia sẻ kinh nghiệm nhằm hoàn thiện tốt hơn khả năng cứu chữa bệnh nhân bị thương nặng ./. Tuấn Cường ( Tạp chí LĐXH)

04/10/2007

4 bài tập thể dục cho khớp gối

Các chuyên gia xương khớp nhận thấy rằng tình trạng yếu cơ tứ đầu đùi thường gây nên sự bất ổn định ở vùng đầu gối. Từ đó, xuất hiện sự mất cân bằng của các cơ, khớp, dây chằng liên quan. Cuối cùng là người bệnh đau ở vùng gối. Người ta cũng nhận thấy rằng tình trạng đau, mỏi, cứng khớp gối thường xảy ra ở người lớn tuổi (trên 40 tuổi), phụ nữ trong và sau tuổi mãn kinh, nhất là những người có những bệnh lý khác kèm theo như loãng xương, thoái hóa khớp... Và do đau nên bệnh nhân ít vận động vùng gối. Điều này làm cho các cơ, dây chằng vùng khớp gối ngày càng yếu đi, tình trạng đau gối càng tiếp diễn. Tập thể dục nhẹ nhàng vùng gối bằng 4 động tác sau sẽ phá vỡ “vòng xoắn bệnh lý” này.
Ai cần tập?
Đó là người bị đau gối, mỏi gối, người già, người ít vận động thể lực, người bị thoái hóa khớp, nói chung tất cả chúng ta cần tập để phòng và điều trị đau khớp gối.
Bài tập 1: Làm cứng cơ tứ đầu đùi
Ngồi trên giường, dựa lưng lên thành ghế, chân thẳng góc với thân mình, 2 bàn chân thẳng góc với cẳng chân, 2 tay duỗi thẳng xuống hoặc nắm lấy thành giường (hình Ia). Sau đó chầm chậm duỗi cổ chân, nâng cẳng chân và đùi lên tạo với nhau một góc khoảng 150 độ, giữ tư thế này (Ib) trong khoảng 2 giây. Sau đó thư giãn các cơ chân hoàn toàn. Thực hiện nhiều lần trong ngày, bài tập này cũng có thể thực hiện trong tư thế đứng.
Bài tập 2: Nâng 2 chân lên
Bắt đầu từ vị trí giống như hình Ia. Sau đó nâng 2 gối và toàn bộ 2 chân thẳng lên trên (IIb), ra phía ngoài (IIc) rồi vào phía trong (IId). Cuối cùng trở lại tư thế nghỉ ngơi (Ia).
Bài tập 3: Nâng luân phiên 2 cẳng chân lên
Ngồi trên cạnh giường, thòng 2 cẳng chân xuống đất, thẳng góc với 2 đùi (IIIa). Sau đó nâng cẳng chân phải lên tạo với đùi phải thành đường thẳng, cùng lúc co chân trái lại, bắp chân trái tựa vào cạnh giường (IIIb). Thay đổi bên (thẳng chân trái và đồng thời co chân phải).
Bài tập 4: Đạp xe đạp
Nằm ngửa không gối, đầu và thân áp sát giường, 2 tay duỗi dọc 2 bên thân mình, 2 chân đưa lên cao, thực hiện động tác như đạp xe đạp. Trong khi đang đau lưng các bạn cần cẩn thận khi thực hiện động tác này.
Tập những động tác thể dục này với cường độ nhẹ, mỗi ngày 3 lần, thường xuyên, sau một thời gian, gối của các bạn sẽ trở lại trạng thái ổn định và khỏe mạnh. O
BS. HUỲNH HẢI (Khoa học phổ thông)

Đời Sống-Gia Đình (VietBao VN)

Vui Cười (VietBao VN)

SƯU TẦM ĐỊA CHỈ ĐIỆN THOẠI TƯ VẤN SỨC KHOẺ:

Tư vấn miễn phí:

* Điện thoại của đường dây tư vấn hỗ trợ trẻ em 18001567 hoặc chương trình Cửa sổ tình yêu (04) 3 8262625 để được tư vấn miễn phí.
* Phòng tư vấn sức khỏe sinh sản Bệnh viện Từ Dũ TPHCM với các chương trình tư vấn chăm sóc sức khỏe phụ nữ trước, trong và sau sinh miễn phí dành cho các ông bố, bà mẹ: điện thoại (08) 3 8395117 (số nội bộ 368).
* Phòng tư vấn sức khỏe cộng đồng tại Bình Định: (có tư vấn về phòng chống HIV/AIDS): Địa chỉ liên hệ với Trung tâm Tư vấn sức khỏe cộng đồng: 419 Trần Hưng Đạo, Qui Nhơn vào tất cả các ngày trong tuần (trừ chủ nhật). ĐT: (056): 3 811 466. Trung tâm tư vấn HIV/AIDS miễn phí tại: + Phòng tư vấn sức khỏe cộng đồng - Bệnh viện Lao: ĐT (056) 3 748 922; + Phòng khám số 3 (936- 938 Trần Hưng Đạo, Qui Nhơn: ĐT (056): 3 792 476.
* Phòng tư vấn sức khỏe miển phí tại Trung tâm Y tế Quận 1 TP.HCM với trên 20 bác sĩ thuộc các chuyên khoa tham gia tham vấn sức khỏe trực tiếp hoặc qua điện thoại số (08) 3 8206544.
* Chương trình VTV1 "Sức khoẻ là vàng", phát sóng vào 18h ngày Chủ nhật và phát lại vào 15h Thứ 4 tuần kế tiếp: Số điện thoại nóng của chương trình là 1900561225.
* Chương trình VTV2 “Sức khoẻ cho mọi người”, phát sóng vào 17h30 ngày Thứ 3 hàng tuần và phát lại vào 12h trưa hôm sau.
* Trung tâm tư vấn ung thư Can Hope (Singapore) tại Hà Nội: 04. 3 7472729 / 04. 3 7472730
* Khám và tư vấn miễn phí các bệnh lý thoái hóa và thoát vị đĩa đệm cột sống là chương trình do BV Nguyễn Tri Phương (468 Nguyễn Trãi, Q.5, TP.HCM) thực hiện vào lúc 13g30 thứ sáu hằng tuần.
Bệnh nhân có nhu cầu đăng ký qua số ĐT: 39234332 (xin số 895).


Khác:

* Bệnh nhân nam giới có nhu cầu khám và tư vấn các bệnh lý Nam khoa, vui lòng đăng ký tại BVĐH Y Dược TP.HCM, 215 Hồng Bàng, P11, Q5.:
1. Phòng khám Nam khoa. Điện thoại: (08) 3 8554269 (số 265) 2. Bộ phận chăm sóc khách hàng. Điện thoại: (08) 3 4051010- 3 4051212

*Ttư vấn “Bệnh loét dạ dày-tá tràng” liên hệ Phòng khám tiêu hóa - bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM, xin vui lòng đăng ký qua số điện thoại: 08. 3 4051010, 3 4051212, bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM, 215 Hồng Bàng, P.11, Q.5, bộ phận Chăm sóc khách hàng.

* Câu lạc bộ phòng chống Hen Hà nội, Hội Hen DU & MDLS Việt nam 04.3 9438933

* Các địa chỉ khác tại: http://shelove.biz/thong-tin-tu-van

* Tham khảo chữa rắn cắn: Địa chỉ liên hệ của ông Tần: Lê Văn Tần - xóm 6 xã Thanh Long, huyện Thanh Chương, Nghệ An. Điện thoại: 0972.901.089.

Người theo dõi